Ngang Trời Mây Đỏ - Tiểu Thuyết
(Hết hàng)
Tác giả: Ngọc Bái Thể loại: Văn học ISBN: 8935216801184 Xuất bản: 3/2012 Trọng lượng: 300 gr NXB: Dân Trí Số trang: 298 trang - khổ: 14.5x20.5 cm Giá bán: 62,000 đ |
|
Đêm cuối năm, bầu trời không một đốm sao, gió thốc hơi lạnh bủa vây khắp các nẻo đường. Đèn điện chỉ đủ tạo nên những quầng sáng nhạt nhoà bên dưới các lùm cây. Rét đã khiến nhiều người thu mình trong chăn, không dám bước ra đường. Hà Nội trải qua một ngày thứ bảy ồn ào chợ búa, náo nhiệt tàu xe, đã dần im ắng. Vừa qua tiết đông chí, những cơn gió ghê người thổi xao xác trên các tán cây, thổi hun hút vào các lối ngõ, khiến không mấy ai ra đường vào lúc khuya khoắt. Trên đường phố chỉ còn thưa thớt mấy người chạy xích lô, đang cố nán chờ khách bước ra từ các tiệm nhảy hoặc nhà cô đầu, để kiếm lấy những đồng bạc lẻ cuối cùng trong ngày. Thấp thoáng trong các góc công viên, góc phố, trong các ngõ hẻm, lảng vảng bóng lính cẩm với con mắt dò xét xuyên thấu vào đêm tối. Lũ mèo không còn gào man dại trên các mái nhà, với bản năng đực cái hoang sinh. Chỉ có đám chim lợn suốt ngày nằm dí trong các hốc cây, giờ mới bay đi kiếm mồi chả kể gì giá lạnh. Chúng gọi nhau bằng những âm thanh quái dị kinh rợn của một loài thú lấy bóng đêm làm điều kiện duy trì sự sống. Lũ chuột lấm la lấm lét chui ra từ các xó tối, không biết rằng chúng đang là những miếng mồi ngon của lũ chim hám sát. Cuộc vật lộn tự nhiên kia diễn ra bên cạnh những lo toan của đời sống con người. Không mấy ai để ý. Người ta chỉ chợt thấy điều đó trong những khoảnh khắc vô tình, những khi không thể chìm đắm dễ dàng vào giấc ngủ. Đêm ấy, ở cái làng Thể Giao ngay trong Hà Nội đã diễn ra một sự kiện đặc biệt. Đặc biệt bởi những người đến đây gọi là để mở sòng bạc mà lại không thấy đánh bạc. Đặc biệt bởi mọi người đã chọn Thể Giao làm nơi họp bàn mở hội kín. Thể Giao là một mảnh làng sót lại cuối phố. Hình hài đô thị mới chớm đến cửa làng. Vẫn còn những ngôi nhà có vườn cau ao cá tĩnh mịch. Phố xá chưa lấn át những kiến trúc của làng xã. Vẫn còn có những ngôi nhà năm bảy gian bề thế, rộng rinh như thể hội trường. Điển hình cho những ngôi nhà ấy là của Lê Thành Vỵ, một người tâm phúc nhiệt huyết, sẵn sàng tạo điều kiện cho hoạt động của những người yêu nước bí mật. Ngôi nhà nằm rìa làng, rất tiện lợi cho việc tổ chức họp đông người. Nguyễn Thái Học chưa bớt lo, bởi tuy đã khá đông các đồng sự, nhưng còn thiếu Phạm Tuấn Tài. Không biết anh đang gặp trở ngại gì? Một con người tràn đầy nhiệt huyết và luôn đúng hẹn. Cớ gì chưa thấy đến? Hẳn là có chuyện. Mọi người đương phân vân về sự vắng mặt của Phạm Tuấn Tài, nhưng đến giờ trọng đại, không thể hoãn được. Phạm Tuấn Tài đang làm phận sự giáo học tận Tuyên Quang, có hẹn về mà chưa thấy. Nguyễn Thái Học, thay mặt Ban tổ chức tuyên bố tiến hành hội nghị thống nhất các chi bộ đảng toàn quốc. Tại tư gia của Lê Thành Vỵ, một ngôi nhà trại mười mét chiều dài, lợp lá khoáng đạt, hội nghị đại biểu lần thứ nhất của đảng được khởi sự. Yên tâm vì đã cắt đặt người canh phòng. Nhận nhau bằng ám hiệu. Không kẻ lạ nào lọt được vào nơi tổ chức lập đảng. Lá cờ nửa đỏ nửa vàng được treo lên. Lá cờ biểu hiện ý chí chiến đấu của mọi người. Không khí trang nghiêm dồn nén, nghe rõ từng hơi thở hồi hộp. Trang nghiêm bởi sự lựa chọn mà ai cũng thấy rất phù hợp với sở nguyện của người dân xứ sở đau thương này. Màu đỏ và màu vàng ấy là tượng trưng cho người Việt máu đỏ da vàng. Màu đỏ và màu vàng ấy còn là biểu hiện của tinh thần quyết bảo vệ non sông giống nòi. Màu đỏ và vàng ấy còn là tượng trưng cho Dân tộc và Dân chủ. Chọn ngày lễ Giáng sinh để thành lập đảng là đã có tính toán. Nhân mọi người đi lễ nhà thờ mà hành sự. Bọn mật thám không biết đâu mà lần. Qua phần khởi sự của Nguyễn Thái Học, đang thảo luận các sơ thảo cương lĩnh hoạt động của tổ chức, thì từ ngoài ngõ ánh đèn ám hiệu tắt phụt. Không ổn. Có tín hiệu khả nghi. Bọn mật thám rất có thể đã đánh hơi thấy dấu hiệu khác thường nên đã theo dõi chặt những người đến Thể Giao chăng? Nguyễn Thái Học dặn mọi người: theo phương án 2, yêu cầu lặng lẽ rút, không ai mang tài liệu gì, bình thản như ta vừa đi chơi đêm hay đi lễ lạt đình đám ở đâu đó. Mỗi người mỗi ngả, bình lặng chuyển tới trụ sở Nam Đồng thư xã, không để mật thám bám đuôi, thấy khả nghi phải đánh lạc hướng ngay. Tương kế tựu kế, chúng ta tiếp tục hội nghị ở nơi chúng không ngờ nhất. Chính cái địa điểm mà chúng gây khó dễ, bắt đóng cửa nhà sách. Nơi chúng cho rằng, ta không dám họp ở đó. Ta cần cao tay hơn, nhưng cũng không được chủ quan, phải có phương án đề phòng bất trắc. Đã quá nửa đêm mọi người mới mò mẫm về địa điểm mới. Những gương mặt nhoà nhạt sương đêm, ánh lên trong lo toan với trọng trách. Phạm Tuấn Lâm, Hoàng Phạm Trân, Hồ Văn Mịch, Nguyễn Ngọc Sơn, Lê Văn Phúc, Phó Đức Chính... những người nòng cốt của Nam Đồng thư xã và các đại biểu đến từ khắp các vùng đã vượt qua mọi con mắt dò xét của mật thám. Vẫn chưa có mặt Phạm Tuấn Tài. Sao vậy nhỉ? Chàng trí thức mới ngoài tuổi hai mươi đầy nhiệt huyết, một sáng lập viên Nam Đồng thư xã, không lẽ nào sao nhãng lời hẹn. Mọi người vẫn đặt niềm tin ở con người thông minh quả quyết ấy. Ở con người này không có điều gì có thể nghi ngờ. Chắc hẳn gặp sự cố nào rồi. Nhưng cảnh giác vẫn hơn. Mọi người cắt cử nhau gác. Mọi động tĩnh phải được kiểm soát. Nếu có động thì lặng lẽ rút. Mỗi người mỗi ngả, đề phòng mật thám túm gọn. Đã hoạt động bí mật là phải linh hoạt, đối phó kịp thời với mọi tình huống xấu. Đấy là bài học sơ đẳng nhất khi dấn thân vào con đường hoạt động cách mạng. Mọi người mất hút vào các con phố nhỏ. Bóng đêm ôm trùm lên Hà Nội. Thỉnh thoảng trên đường mới thấy một vài bóng người vội vã như cố tránh cái rét. Tàu rú còi phía ga Hàng Cỏ. Đêm mông lung, cảnh vật chìm dần vào màn sương quánh đặc. Rét bám theo người đi. Trong ngôi nhà số 6, đường 96 bờ hồ Trúc Bạch, ánh đèn thắp lên vừa đủ để nhận ra các khuôn mặt. Cuộc hội nghị của những chàng trai trẻ lại tiếp tục. Vẫn giọng điềm tĩnh của Nguyễn Thái Học: - Chúng mình họp nhau là để thống nhất những ý tưởng đã nung nấu trong mỗi người từ đã lâu. Ngay từ cuối tháng mười, chúng ta được hậu thuẫn của Nam Đồng thư xã, đã nhóm họp bàn về việc thành lập một đảng cách mạng, tập hợp những nhà yêu nước khắp các địa phương. Đến nay, ngoài Nam Đồng thư xã, chúng ta đã lập thêm được mười tám chi bộ nữa ở mười bốn tỉnh thành, số lượng hội viên đã tới hơn hai trăm. Được sự hưởng ứng của mọi người, hôm nay chúng ta biến ý tưởng đó thành hiện thực. Đó là việc phải thành lập tổ chức đầu não, có tiếng nói chung, có ý chí chung, có mục tiêu chung, có kỷ luật chung để cùng nhau hành sự. Rất diễm phúc cho chúng ta là đã có Nam Đồng thư xã là hạt nhân đầu tiên rất sáng giá, xứng đáng là Đệ nhất chi bộ, khai mở cho chúng ta những bài học sơ đẳng về tư tưởng và tinh thần, là chỗ dựa tin cậy cho mọi hoạt động. Cũng là Bộ Tham mưu của chúng ta, đã hoàn tất một số nội dung cơ bản cho hội nghị lần thứ nhất của đảng. Thay mặt Chủ toạ hội nghị, tôi xin đọc toàn văn soạn thảo các văn bản trình thưa với hội nghị, rồi xin mọi người thảo luận chính yếu vào những nội dung thiết thực, phù hợp với hoàn cảnh thực tại, về tôn chỉ mục đích, về Điều lệ đảng, về phương kế hoạt động, cắt cử người phụ trách từng phần việc, làm sao mọi điều đều thông suốt mới có thể tiến hành những việc đại sự. Thời gian không nhiều, mọi người nói ngắn gọn, thẳng vào nội dung dự thảo cương lĩnh và chương trình hành động. Như đã dồn nén từ trong sâu thẳm mỗi người, các ý kiến sôi động khúc chiết. Phó Đức Chính, người kỹ sư công chính, chớm hai mươi tuổi đời, phân tích tình hình quốc nội và liên hệ với chủ thuyết của Tôn Dật Tiên, cho rằng: - Đã đến lúc dân ta phải tự cường, giới trí thức cùng với các giai tầng khác của ta không hề non kém. Người ta làm cách mạng được, cớ gì ta lại ngồi yên nhắm mắt để cho ngoại bang đè đầu cưỡi cổ cả dân tộc. Xét cho cùng kỳ lý, nước ta hơn đâu hết rất cần có dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Bởi đất nước đang lúc nhiễu loạn, quan lại thì tham nhũng đồi bại, vua chúa thì tham quyền bất lực, thực dân thì tham tàn vơ vét. Nên không thể chần chờ gì nữa, chúng ta phải có tổ chức, để chống lại mọi sự thối nát. Hoàng Phạm Trân, nhà văn (bút danh Nhượng Tống), con người nho nhã, vừa có cái uyên thâm của người từng qua Nho học, lại có cái tân kỳ của người thụ theo Tây học, điềm đạm phát biểu chính kiến: - Dân ta đang lầm than, là những người hiểu biết thời thế, chúng ta phải có những hành vi hướng dẫn đồng bào, lập ra tổ chức, truyền bá lý tưởng trong dân chúng, mới có điều kiện để mở rộng hiểu biết của mọi người, đồng lòng chống thực dân, chống bọn vua quan ươn hèn, bọn làm tay sai hại dân mình. Vấn đề là phải cử được những người đứng mũi chịu sào từng việc, như con tàu, phải có đầu máy khoẻ mới dẫn dắt được cả đoàn tàu. Vậy cho nên ai đảm nhiệm công việc là gánh trọng trách... Hồ Văn Mịch nhỏ nhắn thư sinh nhưng giọng nói sắc gọn quả quyết, tiếp lời Hoàng Phạm Trân: - Tôi rất đồng tình với ý kiến của mọi người, vấn đề cốt tử là chúng ta phải có kế hoạch hành động. Bước đầu có thể chưa thật chu toàn. Nhưng quá trình dấn thân vào công việc sẽ nảy ra những ý hay điều tốt, xoay chuyển ứng phó kịp thời với thế sự... Phạm Tuấn Lâm, một yếu nhân sáng lập Nam Đồng thư xã, anh em ruột với Phạm Tuấn Tài, người Vụ Bản, Nam Định, ngước đôi gọng kính trắng, nhìn khắp lượt mọi người, rồi thong thả nói: - Chúng ta phải có chủ thuyết. Làm việc gì cũng phải có tư tưởng dẫn dắt. Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, việc vận dụng chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên vào công cuộc chỉ hướng cách mạng là phù hợp nhất. Đồng thời với việc chúng ta tiếp thu những điều hay lẽ đúng của tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái mà các học giả phương Tây như Monteskier, Voltaire, Diderot, Rousseau đã dày công hun đúc. Ý kiến mỗi lúc một sôi động và cụ thể. Nguyễn Thái Học xúc động kín đáo lấy khăn lau mắt. Anh không ngờ ý chí quyết tâm của mọi người lớn hơn anh nghĩ. Ai cũng đóng góp những điều xác thực. Hàng loạt những vấn đề được đặt ra, không thể coi nhẹ điều gì. Tổ chức ra đời rồi sẽ hoạt động ra sao? Lấy nguồn tài chính ở đâu để bảo đảm cho các hoạt động? Lực lượng cách mạng và phát triển tổ chức thế nào?... Ai cũng hiến kế. Nguyễn Thái Học rất mừng vì một mình không sao nghĩ xuể công việc. Có mọi người anh càng vững tin bởi những ý kiến đã nung nấu trong mỗi cá nhân được dịp bộc lộ, với tấm lòng yêu nước yêu dân không kể xiết. Nguyễn Thế Nghiệp sôi nổi: - Tôi cho rằng chúng ta phải mau chóng phát triển tổ chức. Tập hợp được càng nhiều đảng viên càng tốt. Ở phía Bắc Giang, Bắc Ninh, tuy phong trào Yên Thế bị thực dân Pháp đàn áp từ lâu, nhưng vẫn giữ được truyền thống bất khuất. Ai cũng muốn xứng đáng là con cháu của cụ Đề Thám, không chịu khuất phục trước cường quyền. Chỉ cần chúng ta phát động được tấm lòng ái quốc của người dân. Không để cho ngoại bang coi khinh mình là dân An Nam mít hạ đẳng, ngu dại. Nguyễn Thái Học càng phấn chấn bởi những điều đặt ra rất trúng với suy nghĩ của anh. Khi đã xác định được đúng mục tiêu tranh đấu, sẽ có phương cách hoạt động cách mạng phù hợp. Anh đặc biệt quan tâm tới bộ máy lãnh đạo, việc tổ chức lực lượng, phần tài chính của đảng, kỷ luật của đảng và nguyên tắc giữ bí mật, hệ thống liên lạc truyền tin, chế độ hội họp và phân công phụ trách từng phần việc, từng địa phương. Anh lắng nghe ý kiến của Đặng Đình Điển, một điền chủ tuổi đã ngót bảy mươi, vừa từ đất Thái Bình vượt Tân Đệ sang Nam Định, đáp chuyến tàu chiều tới Hà Nội. - Việc chúng ta hội nghị hôm nay, rất hợp ý nguyện của dân chúng. Thái Bình mang tiếng là xứ lúa mà nhiều năm chịu đói, khổ sở về nạn cường hào ác bá hoành hành, chúng chỉ lo vơ vét và bợ đỡ quan trên. Chẳng mảy may nghĩ tới dân chúng lầm than. Nay có tổ chức nhằm tranh đấu cho dân sẽ được dân nhiệt liệt hưởng ứng. Tôi thấy chủ trương làm cách mạng vì dân tộc độc lập như trong văn bản anh Nguyễn Thái Học vừa nêu ra là đúng đắn lắm. Lắng nghe những ý kiến của đại biểu các địa phương từ Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh, Nam Định, Hưng Yên, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Bắc Giang, Kiến An, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Tuyên Quang và Thanh Hoá, trình bày về tình hình cụ thể mỗi nơi, Nguyễn Thái Học rất hài lòng, vì thấy sự lớn mạnh trong nhận biết thời cuộc và những khó khăn không thể lường trước được của con đường cách mạng. Anh vô cùng cảm động khi thấy mọi người tự lo tài chính và vượt qua muôn vàn trở lực để đến hội nghị với tinh thần vô tư và trách nhiệm. Một cơn gió ùa vào phòng, cùng với cơn gió là Phạm Tuấn Tài. Tấm áo khoác ướt sũng sương đêm. Mọi con mắt đổ dồn về phía anh. Chiếc mũ phớt che kín một bên mặt. Tiếng hỏi như thốt lên cùng một lúc: - Sao đến muộn vậy? - Sắp tới Thể Giao thì phát hiện có kẻ theo dõi. Đành phải đánh lạc hướng. Nhảy tàu điện vào tận Hà Đông. Không thể quay lại bằng tàu điện. Vẫn thấy bóng mật thám lởn vởn ở bến xe. Đành phải cuốc bộ. Về Thể Giao thấy im quá. Đoán là các anh đã đổi phương án địa điểm họp. Nên đi thẳng về đây. - Thế là vẫn kịp biểu quyết những nội dung trọng yếu. Nguyễn Thái Học chỉ chỗ ngồi cho Phạm Tuấn Tài, rồi tiếp tục điều hành hội nghị. - Rất nhiều ý kiến xác đáng góp vào dự thảo các văn bản của chúng ta. Riêng anh Phạm Tuấn Tài đến sau, không kịp thảo luận, tôi sẽ có trách nhiệm truyền đạt lại. Để đảm bảo thời gian, chúng ta chuyển sang nội dung khác. - Tôi tuy không đến được từ đầu hội nghị, nhưng các văn bản dự thảo tôi đã được đọc nhiều lần. Chắc chắn những ý kiến đóng góp của mọi người cũng là sở nguyện chung. Tôi tin ở sự sáng suốt, thấu đáo. Còn lực lượng chúng ta nên mở rộng mọi thành phần: trí thức, nông dân, địa chủ, thương gia, công chức, sinh viên, học sinh, công nhân, binh lính người Việt trong quân đội Pháp... đều có thể trở thành đảng viên, nếu tình nguyện và có lòng yêu nước thương dân thật sự. Phạm Tuấn Tài, nhà thơ (bút danh Mộng Tiên) phát biểu chính kiến, tỏ một mối quan tâm mà anh cho rằng rất cần thiết để tập hợp thành lực lượng của cách mạng. Đấy là động lực con người, tài lực và phương thức hoạt động. Lê Thành Vỵ sốt sắng nêu ý kiến về một điều đã có nhiều ý kiến quan tâm thảo luận ngay từ lúc bước vào hội nghị: - Vấn đề tài chính đảm bảo cho các hoạt động của đảng đã được nhắc tới. Theo tôi vấn đề này khá quan trọng đấy. Có thực mới vực được đạo mà! Sinh ra đảng phải tự nuôi được đảng. Chúng ta phải làm kinh tế. Tự chủ kinh tế. Không dựa dẫm. Phải đi bằng chính đôi chân của chúng ta. Rất cụ thể, phải rất cụ thể mới nắm chắc được thành công. Còn làm thế nào, chắc mọi người đều có trách nhiệm hiến kế. Trong vòng đêm khuya khoắt, tiếng Nguyễn Thái Học trầm ấm, như dồn hết nhiệt huyết vào những điều được hun đúc từ ý kiến của các đại biểu: - Về danh xưng, từ nay chúng ta lấy tên là Việt Nam Quốc Dân đảng. Về chủ trương chung, chúng ta làm một cuộc cách mạng Quốc gia, dùng võ lực đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, để lập nên một nước Việt Nam Độc lập Cộng hoà. Đồng thời giúp đỡ các dân tộc bị áp bức trong công cuộc tranh đấu giành độc lập của họ, đặc biệt là các lân quốc Ai Lao, Cao Miên. Sở dĩ chúng ta đề cập tới các lân quốc, bởi chúng ta không thể làm cách mạng đơn độc, phải có sự hỗ trợ rộng rãi của toàn xứ Đông Dương. Làm kinh tế cho đảng, trước mắt ta phải chú trọng tới gây dựng tài chính bằng nhiều phương cách, kể cả kinh doanh khách sạn và tranh thủ sự tự nguyện quyên góp của những nhà ái quốc hữu sản có điều kiện ủng hộ cách mạng. Phải có khả năng tài chính mới có thể mua và chế tạo vũ khí. Chúng ta còn phải liên lạc với các tổ chức yêu nước, cùng chí hướng tiến hành cách mạng, ví như Thanh Niên cách mạng, Tân Việt cách mạng. Bằng mọi cách gặp được cụ Sào Nam Phan Bội Châu để nghe những lời chỉ giáo. Việc liên lạc với ông Nguyễn Khắc Nhu ở Bắc Giang, ông Trần Huy Liệu và ông Nguyễn Phương Thảo ở Sài Gòn, ông Phan Khôi ở Trung Bộ, cũng là việc phải được tiến hành. Đồng thời ta còn cử người sang Tàu liên lạc với Chu Dưỡng Bình. Rất nhiều công việc đang bày ra trước mắt chúng ta, đòi hỏi khẩn trương và thận trọng. Kết quả hội nghị này là kết quả của bao ngày ta cùng nhau bàn thảo. Nội dung cuối của chúng ta là cử ra những người giữ trọng trách thay mặt đảng hành sự. Nguyễn Ngọc Sơn, người đã từng nhiều năm du học trên đất Pháp, thay mặt tiểu ban dự thảo chương trình hành động và Điều lệ nêu một số yêu cầu và đề nghị mọi người chọn lựa. - Vấn đề này rất sát sườn, chúng ta hành động kiểu gì cũng cần phải có phương hướng và quy phạm. Nên rất cần thảo luận thấu đáo. Có vậy ta mới lấy làm cẩm nang tiến hành các công việc của tổ chức được. Nguyễn Thái Học nêu chính kiến: - Ở đây chúng ta bình đẳng, không xác lập cấp trên cấp dưới, chỉ lo cùng nhau làm việc, cùng gánh trách nhiệm chung của tổ chức. Trước mắt chúng ta phải có được bộ máy điều hành thực thi nhiệm vụ. Trong thời hạn nhất định sẽ bầu lại cho hợp với sở trường và điều kiện làm việc của mỗi người. Phó Đức Chính nói thêm: - Được tổ chức giao việc nghiên cứu nhân sự kỹ lưỡng, tôi đề xuất một danh sách có thể đảm đương công việc. Việc thảo luận về nhân sự diễn ra chóng vánh, biểu quyết từng cá nhân, mọi chú ý đều dồn về phía Nguyễn Thái Học. Danh sách về nhân sự được ban Tổ chức hội nghị công bố: - Nguyễn Thái Học, Chủ tịch Tổng bộ. - Nguyễn Thế Nghiệp, Phó Chủ tịch. - Phó Đức Chính, Trưởng ban Tổ chức. Lê Văn Phúc, phó ban. - Hoàng Phạm Trân, Trưởng ban Tuyên truyền. Lê Xuân Hy, phó ban. - Nguyễn Ngọc Sơn, Trưởng ban Ngoại giao. Hồ Văn Mịch, phó ban. - Đặng Đình Điển, Trưởng ban Tài chính. Đoàn Mạnh Chế, phó ban. - Nguyễn Hữu Đạt, Trưởng ban Giám sát. Hoàng Trác, phó ban. - Tưởng Dân Bảo, Trưởng ban Trinh sát. Phạm Tiềm, phó ban. - Hoàng Văn Tùng, Trưởng ban Ám sát. - Còn ban Binh vụ sẽ cử sau. Nguyễn Thái Học kết thúc hội nghị bằng việc tóm tắt chủ trương hành động của Việt Nam Quốc Dân đảng là xây dựng một nước Việt Nam theo hình thái xã hội dân chủ. Cách mạng chia làm 3 thời kỳ: Một - Thời kỳ phôi thai bí mật. Hai - Thời kỳ dự bị bán công khai. Ba - Thời kỳ khởi nghĩa công khai. Trong quá trình cách mạng luôn kết hợp hài hoà giữa bí mật và công khai. Bí mật về tổ chức và chủ trương. Công khai trên cơ sở đảm bảo hợp pháp với đương thời, nhằm tránh những phiền toái không đáng có. Từ nay chúng ta đã có Tổ chức chính thức. Khổng Tử xưa có thuyết chính danh. Phải chính danh mới hành sự được. Ta hướng toàn bộ hoạt động của đảng viên vào thực hiện tôn chỉ, mục đích, nhiệm vụ và Điều lệ của đảng. Nguyễn Thái Học nhiệt thành và cô đúc trong những lời được thốt ra từ gan ruột: - Tôi xin được nhấn mạnh thêm, mọi người phải hết lòng tuân thủ kỷ luật của đảng đã được ghi trong Điều lệ. Tuyệt đối trung thành, tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh của đảng và sẵn sàng hi sinh, đó là những điều tâm nguyện. Ai phản bội sẽ bị xử tội chết. Vâng, tôi xin lấy tính mạng của mình dâng cho Tổ quốc. Nguyễn Thái Học không nén được xúc động. Giây phút ấy thật thiêng liêng. Anh giơ nắm tay lên ngang thái dương, mắt nhìn đăm đăm về lá cờ. Mọi người đứng dậy làm lễ Tuyên thệ. Ai cũng thấy rưng rưng nước mắt. Từ nay tính mệnh của mỗi người là của đảng. Sứ mệnh của đất nước đang đặt lên vai của mỗi người. Mọi người siết chặt tay nhau. Như thấy hồn sông núi bay phảng phất trên đầu mỗi người. Không ai nói nên lời. Con đường phía trước của cách mạng chưa ai dám chắc điều gì. Chỉ biết rằng họ đang làm phận sự cao cả trước vận mệnh của đất nước. Họp tan. Chuông nhà thờ báo 5 giờ sáng. Đó là ngày được lịch sử ghi là 25 tháng 12 năm 1927. * Định ngủ một giấc cho lại sức sau một đêm thức trắng, nhưng cả hai chàng trai không tài nào ngủ nổi. Sự kiện lớn lao như vậy, làm sao có thể ngủ dễ thế. Cả hội nghị chung một tiếng nói, chung một ý chí, hiếm thấy ở nơi nào đồng lòng cao như vậy. Cho nên, Nguyễn Thái Học cùng Hồ Văn Mịch phóng lên đường Yên Phụ ra Hồ Tây ngắm cảnh. Sà vào vườn ổi ven hồ. Hương ổi thơm lừng. Ở nơi này có thể nhìn sang nơi ngày xưa các cung nữ trồng dâu chăn tằm dệt lụa. Ngồi giữa đám cỏ xanh ngắm trời ngắm nước, vô cùng thơ mộng. Một làn sương mỏng là là sát mặt hồ. Hồ rộng mênh mông, lắm khi sương phủ dầy, nên xưa gọi nơi này là hồ Dâm Đàm. Tự dưng, Nguyễn Thái Học hỏi Hồ Văn Mịch: - Anh còn nhớ chuyện dã sử về Tiến sĩ Lê Văn Thịnh thời Lý bị nghi là đội lốt cọp hãm hại vua Lý Nhân Tông trên hồ này không? - Có chứ! Tôi cho đó là chuyện phịa. Vì một vị Thủ khoa tam trường, Tiến sĩ đầu tiên của thời Lý, lại là quan Thái sư đầu triều, theo Nho giáo, ý thức trung quân ái quốc cao lắm, chẳng bao giờ lại có chuyện mưu hại vua được. Nguyễn Thái Học giọng trầm hẳn xuống: - Ông Tiến sĩ này khi còn là Thị lang Bộ binh, năm Giáp Tý 1084, được vua giao đến trại Vĩnh Bình cùng với người Tống thương thuyết về cương giới, chỉ dùng ba tấc lưỡi mà triều Tống phải trả nhà Lý 6 huyện và 3 động ở vùng đất Cao Bằng. Sức mạnh của lời nói đâu có nhỏ? Người Tống thời ấy đã phải thốt lên rằng: “Nhân tham Giao Chỉ tượng. Khước thất Quảng Nguyên kim”. Vì tham voi Giao Chỉ. Bỏ mất vàng Quảng Nguyên! Đấy, thời ông cha chúng ta đã bảo vệ đất nước như vậy. Làm sao ta lại để mất nước? - Các bậc trí giả nước ta rất nên hóa giải nỗi oan tầy liếp ấy cho Tiến sĩ Lê Văn Thịnh! - Đấy là bậc trí thức đầu tiên của đất nước, được học hành đến nơi đến chốn. - Phải đánh giá cho sòng phẳng công lao của ông ấy. Mà đánh giá cho đúng không thể dựa vào dã sử được. - Nhưng khổ một nỗi, nhiều khi dã sử lại được người đời nhớ hơn chính sử. - Đấy là một phần do khiếm khuyết của các sử gia. Bây giờ muốn biết y phục của thời đó thế nào? Kiến trúc thời đó ra sao? Chịu! Bởi các sử gia cung đình chỉ lo chép những gì xảy ra xung quanh vua. - May là các sử gia không quên nói tới những công cuộc chống ngoại xâm phương bắc của các triều đại, không thì làm sao hun đúc được truyền thống yêu nước của dân ta. Hai chàng nằm ngửa lên cỏ ngắm mây bay, mỗi người riêng một tâm trạng. Mặt trời đỏ ối chầm chậm loang trên mặt nước Tây Hồ. Chương II NGÀY TRĂNG CHƯA RẰM ngoảnh lại con đường vết chân ngày cũ ngoảnh lại bến xưa con thuyền bé nhỏ chở trăng về nơi gió chưa kịp gió neo lại dòng sông lãng đãng tuổi thơ Bà Quỳnh chạy ngược chạy xuôi ơi ới gọi con: - Học ơi! Học ơi!... Đi đâu để trâu phá ruộng dâu, người ta bắt thế hả? - Học… ơ…ơi! Khổ thế! Không biết nó chạy đi đằng nào? Buộc trâu sơ sơ vào mấy cuống rạ thì làm sao trâu nó chả rứt phá đi. Thằng này hôm nay về thì chết đòn. Con với chả cái. Gọi mãi chả thấy con, bà Quỳnh đến gặp chủ ruộng dâu khẩn khoản: - Bác ơi, thiệt hại thế nào tôi xin được đền bù. Con dại cái mang, mong bác làm ơn làm phúc bỏ qua cho. Khổ quá! Mọi ngày đi chăn trâu nó có sao nhãng thế này đâu? - Cũng may là tôi đang hái dâu ở đám ruộng bên kia, trông thấy ngay con trâu đang vặt lá dâu, tôi sang kịp giữ nó lại, chứ không hôm nay nó phá hết bãi dâu thì khốn. - Vậy thiệt hại thế nào, bác tính cho. - Thôi, hàng xóm láng giềng, tính toán gì! Bảo cháu nó lần sau chớ có sao nhãng thế. - Vâng, vâng! Đa tạ bác! Tôi sẽ cho cháu sang nhà xin lỗi bác. Bà Quỳnh xin trâu dắt về nhà. Học quay trở lại không thấy trâu buộc gốc rạ, sợ tái mặt liền hớt hơ hớt hải đi tìm. Có người mách rằng mẹ cậu đã dắt trâu về rồi, cậu chưa hết lo. Phen này về nhà biết ăn nói thế nào. Chưa bao giờ Học đi chăn trâu lại dám bỏ đi xa thế. Quả là liều lĩnh, hôm nay để trâu phá hết bãi dâu của người ta thì biết lấy gì mà đền? Đúng là chỉ vì muốn thoả chí tò mò mà Học đã chạy theo đám lính súng ống đằng đằng cùng với một ông Tây mắt xanh mũi lõ qua tận làng Vũ Di, đến nhà bà mẹ Đội Cấn. Học đã cùng lũ trẻ chạy theo sang đó, khi thấy người ta bảo đi xem lính bắt người. Đến cổng làng Vũ Di, ông Tây chỉ trỏ, bắt lính canh gác các ngả đường. Một toán xông vào nhà bà mẹ Đội Cấn. Ông Tây nói xì xồ mấy câu, đám lính xộc vào nhà lục lọi, rồi lôi sềnh sệch bà mẹ Đội Cấn ra sân, quát tháo nạt nộ: - Già rồi mà không dạy… dạy được con. Để nó đi… đi làm giặc. Nó có cất… cất giấu súng ống ở… ở nhà không? - Súng ống là ở nơi đồn binh của nó, chứ nó đem về nhà làm gì? - Mụ già có biết thằng Cấn… Cấn nổi loạn không? Chính phủ đã thăng cho nó lên chức Đội… Đội rồi mà nó còn làm phản. Nó từ Thái Nguyên chạy… chạy về chân núi Tam Đảo… cố cố thủ, có thấy nó lén… lén lút về nhà không? - Các người còn chẳng biết, ta già cả rồi, suốt cả ngày ru rú ở nhà, làm sao biết được con ta làm gì? Nó có về hay không, nếu có biết ta cũng không thèm nói với lũ ác nhân ác bá như các ngươi. - Mụ già này gàn dở lắm. Mẹ kiếp! Nói cho mụ khốn nạn biết, mẹ… kiếp, nếu thằng Cấn về đây mà mụ che giấu, mẹ kiếp… sẽ bắt mụ bỏ tù cho biết mặt! Đám lính chỉ đáng con cháu bà mẹ Đội Cấn mà dám nói những lời hỗn hào, thô tục. Lục soát không thấy dấu vết gì của Đội Cấn, đám lính hất tung mọi thứ trong nhà. Tên Tây mắt xanh mũi lõ nói tiếng Việt, giọng lơ lớ: - Ba gia liêu hôn, khoông khai bao, la bo tu biệt khuông! Hắn ra lệnh: - Giat đo nha mu ta xuoông! Đám lính tuân lệnh Tây, đã hè nhau kéo sập ngôi nhà tre của mẹ Đội Cấn. Chúng còn nhặt nốt mấy quả trứng gà và bắt con gà đang ấp. Mặc bà mẹ gào thét thế nào chúng cũng không dừng tay. Bà mẹ Đội Cấn gào to cho cả dân làng nghe: - Quân cướp ngày! Hỡi bà con ơi! Hỡi bà con ơi! * Người lớn vẫn thường nói câu “yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, Học đinh ninh rằng thể nào cũng dính trận đòn nhớ đời. Từ nhỏ, Học chưa bị trận đòn roi nào, nhưng trẻ con bạn bè hàng xóm nhiều đứa có lỗi là không thoát bị ăn roi. Cho nên, trở về nhà, biết là mình có lỗi, Học chủ động quỳ trước mặt ông Hách, xin nhận phạt: - Thưa thầy mẹ, con trót dại, cho con xin lỗi… Ông Hách nghiêm mặt: - Con đứng lên! Không được quỳ! Quỳ là nhục lắm! Con biết lỗi rồi thì hãy vào nằm sấp trên phản, thầy sẽ cho mấy roi. Học vào nằm sấp trên chiếc phản kê gian giữa nhà. Ông Hách ra ngoài hiên rút sợi roi mây gài trên mái lá, trở vào đặt chiếc roi lên mông đít Học, rồi trở ra bờ hè ngồi rít hơi thuốc lào rõ dài, phả khói mờ mịt. Ông thong thả đứng dậy, trở vào mới hỏi: - Bây giờ con định nhận mấy roi? - Con xin nhận ba roi ạ! - Sao nhận ít thế? Con có biết nếu hôm nay trâu phá nát ruộng dâu của người ta thì nhà mình phải đền bồi bao nhiêu không? Rồi lấy gì để ăn? - Con biết lỗi rồi, lần sau con không thế nữa ạ! - Lại còn lần sau nữa thì còn ra cái thể thống gì, hả? Chỉ một lần này thôi, nhớ chưa? - Con nhớ ạ! Ông Hách nguôi giận: - Thôi ngồi dậy, lần này thầy cho nợ. Nếu mắc lỗi lần nữa thì cứ nhân lên với hai, cộng với lỗi mới, thầy đánh cả thể. Nhớ không? - Con xin nhớ ạ! - Lát nữa cơm nước xong, con phải sang nhà bác có ruộng dâu mà xin lỗi! - Vâng ạ! Mấy đứa em của Học sợ xanh mắt, ngồi rõ yên trong xó nhà, thấy anh Học được tha đánh đòn sướng quá reo lên: - Anh Học không bị thầy đánh! Anh Học không bị thầy cho roi nào! Học ôm lấy các em, lại cười đùa ầm ĩ. * Đêm về, Học mới hỏi ông Hách: - Thầy ơi, sao ông Tây mắt xanh mũi lõ, với những người lính, lại ác thế? Ông Hách thở dài rồi nói: - Dân mình mất nước khổ thế! Lớn lên rồi con khắc biết! Tiếng thở dài của ông Hách và câu nói “lớn lên rồi con khắc biết” cứ đeo đuổi và ám ảnh Nguyễn Thái Học, càng nghĩ càng thấm thía sâu xa. * Hằng ngày, Học sang nhà cậu Tú để học chữ nho. Cái loại chữ vuông này, học chữ nào biết chữ ấy. Cậu Tú dạy tỉ mỉ từng chữ. Dạy viết, dạy đọc rồi cậu giảng nghĩa. Cậu Tú dạy theo sách “Tam tự kinh”. Được khai tâm rằng: “nhân chi sơ, tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn”. Người ta lúc mới đầu vốn tốt lành, rồi do thói tật ở đời nhiễm dần mà xa với bản tính. Bắt học thuộc lòng bài hôm trước. Nhận mặt chữ hôm sau. Rồi cậu giảng nghĩa từng chữ. Cứ hai hôm cậu Tú lại kiểm tra một lần. Cứ theo thứ tự, viết xong rồi đọc và giải nghĩa. Cậu Tú bảo đấy là học nhập tâm. Cứ ba chữ một, học hết ba chữ này lại học sang ba chữ khác. Chẳng hạn ba chữ: “tam, tài, giả”. Cậu giảng, đó là ba bậc tài. Ba chữ: “thiên, địa, nhân”. Cậu giảng, đó là trời, đất và người. Ba chữ: “tam, quang, giả”. Cậu giảng, ba chất sáng. Ba chữ: “nhật, nguyệt, tinh”. Cậu giảng, mặt trời, mặt trăng và sao… Thế nghĩa là: Ba bậc hiện thân của vũ trụ là trời, đất và người, thì người là ở giữa, trời với đất nối lại với nhau bởi con người. Ba chất tạo nên ánh sáng là mặt trời, mặt trăng và những ngôi sao. Có ba chất sáng ấy thì mới có sự sống. Rồi cứ thế tiếp tục, học hết ba chữ này sang ba chữ khác: Tam cương giả Quân thần nghĩa Phụ tử thân Phu phụ thuận Viết xuân hạ Viết thu đông hử tứ thì Vận bất cùng… Cứ thế mà Học dần dần vỡ ra những điều hiểu biết về con người, về thời tiết, về cảnh vật diễn ra xung quanh mình. Nhưng chả mấy chốc mà cậu dạy hết vốn. Học xong “tam tự kinh”, mới chớm học “tứ thư”, “ngũ kinh”, vừa lúc phong trào học chữ quốc ngữ khắp nơi, Nguyễn Thái Học được sang trường Việt Trì rồi về trường Pháp - Việt ở Vĩnh Yên theo học Diplome. Nhưng dù đi đâu Học vẫn không thể nào quên những ngày được học cậu Tú. Ở đấy là những ngày thơ ấu trong sáng. Cứ mỗi lần nhớ lại những hình ảnh thuở bé ấy lại hiện lên từng chi tiết. Mỗi lời cậu dậy bảo, khắc thật sâu trong trí não ngây thơ của cậu bé Học. Có lần, cậu Tú bảo Học kẻ dòng trên giấy để viết chữ cho thẳng hàng. Cốt cho xong, Học đã bẻ que nứa để thay thước kẻ. Dòng kẻ vì thế ngoằn ngoèo như rắn lội. Cậu xem xong thì bảo: - Muốn học được chữ, con phải học ngay ngắn, ngay thẳng đã! Dòng kẻ cũng vậy, phải thẳng ngay. Chớ cẩu thả. Học ngay ngắn, ngay thẳng là học tử tế. Có tử tế thì mới thành người có ích, con ạ! Cậu nói ít mà thấm thía quá. Trong trí nhớ non nớt của Học, mọi câu nói cứ hằn sâu. Càng lớn lên càng thấy sáng dần ra. * Nhiều lần mẹ Quỳnh cho Học theo đi chợ. Học rất thích được mẹ cho gánh hàng một đoạn. Đôi quang gánh nhiều khi trệt xuống đất, Học vẫn cố kiễng chân gổng lên. Bà Quỳnh bảo: “Làm cho nó quen, kẻo lớn rồi ngại việc”. Gọi là gánh nhưng cũng chỉ lồng phồng mấy cân tằm dâu nhẹ tênh, nào có đáng gì. Ấy thế mà Học cũng tỏ vẻ giỏi giang hơn hẳn các em. Học khoe: - Hôm nay đi chợ, mẹ cho anh Học cầm cân bán tằm dâu cho bao nhiêu người mua nhé! Anh cân tằm cho mọi người, còn mẹ thu tiền nhé! Người ta thích mua tằm do anh cân bán, vì người ta bảo anh không cân điêu. Mẹ dặn anh đấy! Làm gì cũng phải đầy đặn. Bớt xén một chút cũng không giàu có lên được, nó làm cho con người ta bần tiện nhỏ nhen đi! Có lần mẹ cho đi chợ tận bên Sơn Tây. Học nhớ là phải qua cánh đồng lúa, đến Cầu Hương, đi mỏi cả chân, qua mấy cây đa, cây đề, cây trôi cổ thụ, lại qua nơi trồng hàng vườn trầu cau, đến điếm canh đê, ra vườn đò, rồi qua đò Ghềnh bằng thuyền mới tới được Chợ Nghệ, Sơn Tây. Nhớ lần đi đò đầu tiên, Học sợ không dám bước xuống thuyền vì cứ thấy nó tròng trành, sợ nó lật. Mẹ phải bế lên đò mà tim cứ đập thon thót. Đến giữa sông lại thấy những chiếc bè nứa to bằng cả gian nhà theo dòng nước trôi xuống, chỉ lo nó đâm vào đò thì chết. Mẹ đi chợ bán ít sấp vải tơ tằm. Khách quen, việc mua bán rất chóng vánh, để còn về kịp bữa trưa cho cả nhà. Mẹ chỉ mua khi thì ít kẹo vừng, khi thì mấy khoanh bánh đúc, toàn những thứ quà quê cho các con. Nhiều lần, Học thấy đầu chợ có mấy người ăn mày ngửa nón rách xin tiền. Mẹ bao giờ cũng cho họ chút tiền lẻ, rồi thở dài: “Đã người ăn mày lại phải cho kẻ ăn xin!” Học hỏi mẹ: - Mình có phải ăn mày đâu mà mẹ bảo rằng ăn mày? Bà Quỳnh bảo: - Đã nhờ vả người khác là ăn mày thiên hạ rồi con ạ! Mình có vải bán ra, cũng phải có người mua, người mua là người giúp mình, mình phải ăn mày họ. Thế đấy, con biết không? - Thế có hai loại ăn mày hả mẹ? - Nhiều loại ăn mày lắm con ạ. Có loại ăn mày vì bần cùng phải đi ăn mày. Có loại ăn mày vì không muốn làm chỉ muốn hưởng. Có loại ăn mày biết ơn người cho. Nhưng cũng có loại ăn mày vô ơn… Gặp gì Học cũng hỏi mẹ. Mà hỏi gì cũng truy đến cùng. Lắm lúc bà Quỳnh không biết trả lời sao cho thỏa đáng thì xuê xoa: “cứ đi hỏi nó thì biết”! - Mẹ ơi, tại sao gà lại chín cựa, ngựa chín hồng mao? Bà Quỳnh bảo: “cứ đi hỏi nó thì biết”! Có lần, Học đố mẹ: “Con đố mẹ, con gì khổ nhất trên đời?”. Bà Quỳnh biết thừa rằng Học hỏi mẹo, nên trả lời vòng vo cốt để Học phải bật ra câu trả lời của chính Học: - Đấy là “con đường” mẹ ạ! Con đường dãi nắng dầm mưa. Con đường ai cũng dẫm chân lên. Trâu bò xe cộ đều cưỡi lên con đường. Bà Quỳnh cười vui vì thấy con mình càng ngày càng ngộ nghĩnh. Lắm hôm, Học rất thích đi tát vét bắt cua bắt tép cùng với các em. Thời ấy, rất nhiều con lạch chảy dồn về đồng. Mùa nước cạn tạo nên những vũng nông. Ở đó, khối cua cá có thể kiếm về, phần thì để ăn, phần thì đem ra chợ làng bán. Kiếm được nhiều, mẹ lại làm mắm để ăn phòng khi mùa màng cấy gặt. Mẹ rang thính thơm lừng, đem ủ muối với cá tép. Mắm để càng ngấu càng thơm ngon. Mùa thu mở hũ mắm là mọi người muốn ăn cơm đến “thủng nồi trôi rế”. Cơm ít thì ăn với sắn khoai cũng dễ nuốt. Chuyện bắt cua cá này say sưa lắm. Chỉ cần một chiếc gầu sòng, mấy chiếc rổ thưa, cái dỏ, cái cuốc, cái mai là tha hồ be bờ tát cá. Có khi cũng chả cần đến gầu sòng, vũng nước nhỏ nông chỉ cần cái chậu đồng là tha hồ tát. Đã đi tát cá là chẳng mấy khi về tay không. Bởi trước khi đi tát cá, thể nào Học cũng phải thăm dò đã. Biết chắc chắn có cá mới huy động các em vào cuộc. Mỗi đứa một dụng cụ tát cá. Cái Bình, cái Ưu, rồi cu Nho, cu Lâm, đứa nào cũng thạo bắt tôm cua cá. Tát cạn nước rồi, bọn cá diếc và cua là dễ bắt nhất, chỉ cần sặc bùn là chúng nổi lên liền. Còn cá rô thì khó bắt hơn, bởi chúng rạch ngược, không khéo là vây ở lưng nó xước cho đứt tay. Cá quả thì nằm yên, nhưng động vào nó là nó phóng rất mạnh, túm được không dễ dàng. Khó nhất là đám cá trê cá trạch, chúng lẩn sâu xuống bùn, phải sục kỹ lắm chúng mới không thoát. Ghê nhất là dính ngạnh cá trê, nó đánh phải tay mà buốt lên tận óc. Nắng nôi cũng mặc kệ. Mồ hôi mồ kê đứa nào cũng nhễ nhại. Đầu tóc mặt mũi quần áo lấm lem bùn đất. Tóc đứa nào cũng đỏ hoe như râu ngô vì phơi nắng. Ấy thế mà chẳng mấy khi ốm đau. Được cá, mấy anh em lại rủ nhau về giếng làng tắm táp. Đấy là giếng đá được lát chắc chắn, chả biết được dân làng làm từ khi nào. Chỉ thấy mọi người gọi là giếng cổ. Đi làng nào cũng thấy có loại giếng như thế này. Nhưng giếng đá của làng Thổ Tang rất to, cạnh chiếc ao sen, mùa hè ngát hương. Một lần, đi tát cá về, mấy anh em đang tắm, thì thấy lý trưởng làng đi qua. Ông ta dừng lại ngắm nghía rồi quát nạt: - Chúng mày bắt cua bắt cá ở đâu? - Dạ, chúng cháu đi tát vét ở mấy vũng nước ngoài gần đê ạ! - Ai cho phép chúng mày? Các em sợ lý trưởng quá, đứng dẹp bên giếng. Chỉ mình Học đối đáp: - Thưa ông lý trưởng, đấy là mấy vũng nước, ai tát chả được, sao lại cấm? - Cấm hết! - Làng có bảo cấm đâu? - Làng không bằng lý! Quốc gia công thổ, đất chỗ nào cũng là đất công. Tát cá vào nơi đất công. Chỉ có tịch thu. - Ông không được vô lý thế! - A, thằng này lại cãi lý với ông lý. Nể công chúng mày, ta chia cho một nửa. Thế là tốt lắm rồi! Học biết rằng lý trưởng gây khó dễ định chiếm không phần cá, nên bảo ông lý đứng chờ để mang cá xuống ao rửa. Ông lý chưa kịp nói gì thì Học đã bưng rổ cá đến bờ ao, giả vờ ngã, hất tung cả rổ cá xuống nước. * Có lần, Học được mẹ cho ra nghĩa địa thắp hương cho tổ tiên nhân ngày rằm tháng bảy. Ban đêm, nhìn ra nghĩa địa chỉ thấy đom đóm bay loạn xạ. Lắm lúc tưởng có ánh lửa bập bùng như ma trơi. Mấy đứa dọa nhau sợ chết khiếp. Vậy mà ban ngày đến đấy chả thấy sợ là gì. Bước chân bập bà bập bỗng trên gò đất. Những ngôi mộ nấm nhỏ nấm to ngổn ngang, cỏ dầy mọc trùm lấp. Cảnh tượng thật hoang lương. Phải lần qua mấy ngôi mộ chả biết từ thời nào, nấm thấp lè tè. Chỉ có vài ngôi mộ mới, đất còn đỏ quạch. Thắp hương cho mộ tổ xong, mẹ bảo Học đi thắp hương cho các mộ xung quanh. Ở dưới đó cũng có làng có xóm. Nhưng chả phải rào rậu cách biệt gì như ở chốn trần thế. Có mùi hương là các linh hồn sẽ nhận ra nhau. Những ngôi mộ lặng thầm trong cõi u u minh minh, mỗi ngôi mang số phận một người. Mẹ bảo, phải thắp hương đều cho các ngôi mộ xung quanh để những ai không có người thân hương khói đỡ tủi thân. Nghĩa địa chỉ có ngôi mộ của ông chánh hội là to nhất. Mẹ bảo thế. Nhưng đã sang thế giới bên kia cũng chả ai biết là ai. Có bao giờ người ta bảo ông mả to đâu? Mà người ta hay nhắc tới người đó lúc sống tử tế hay không tử tế, nhân từ hay ác độc. Về bên kia là bằng nhau hết. Cũng chẳng còn có suy nạnh, hằn thù hay đảo điên, gian xảo. Mẹ kể rằng: Vào cái năm đói kém, nhà mình đến nhà ông chánh hội vay thóc. Vì nhiều người cầu cạnh vay mượn nên ông chánh cậy thế làm cao, chẳng những không cho vay mà còn xua chó đuổi cắn rách cả váy. Khổ nỗi, ông chánh vợ lớn vợ bé, lúc gần chết người nọ đẩy người kia, bỏ ông lay lắt. Tiếng là giầu có, nhưng khi chết rồi, bao nhiêu của nả vợ con xâu xé, cắn rứt nhau, chết mà không yên. Còn kia là mộ ông Vệ, đi lính sang Tây, phục dịch xứ người nên được chức vệ sĩ gì đó, đánh nhau tận cái nước gì da đen, chả biết tên thật của ông là gì, người ta gọi là ông Vệ, lúc về quê, chả vợ con gì, làm thuê làm mướn, khuân vác hàng cho người đi chợ. Người ta bảo trước khi giải ngũ, Tây tiêm thuốc gì cho ông ấy mà trở nên lú lẫn, lúc nhớ lúc quên, lúc chết chỉ bó manh chiếu rách, chôn nông chôn tạm, chả ai hương khói. Còn mộ này là cô Huệ, bạn thời chăn trâu cắt cỏ của mẹ, lúc còn con gái được tiếng là rất xinh, bị cha mẹ ép gả cho nhà giàu dính thằng chồng vũ phu đánh đập tàn nhẫn, đã tự lấy dây siết cổ mà chết. Còn đó là mộ cô Xiêm, bỏ quê lên phố lang bạt kỳ hồ khắp nơi, mang bệnh giang mai về làng, không thuốc thang, ai cũng ngại không dám gần, rồi chết lúc nào không ai biết, bốc mùi lên trong ngôi nhà ọp ẹp bên góc chợ. Ngôi mộ này là của bà hai Chuột, người nhỏ thó mà có thể chửi nhau với bất cứ ai trong làng nếu bà muốn gây chuyện. Bà đã từng đánh chồng, ngồi như con chẫu chuộc lên bụng chồng, tay giật tóc để hỏi tội, vì ông chồng hiền lành quá. Còn đó, ngôi mộ của ông cả Sầm, là một lực điền, thuở trai tráng ông có thể chấp hai trai làng vào xới vật một lúc. Đến khi già yếu trông hom hem, không đủ ăn, nghe nói lúc lâm chung, ông chỉ mơ có một bát cơm vào bụng mà không có. Còn kia nữa, cụ đồ Lê, người nho nhã, là thầy dậy chữ cho cả làng, sống hiền lành đức độ, cả đời không to tiếng với ai, người có chữ, cụ lại còn học nghề thuốc bắc chữa bệnh cho thiên hạ, được cả làng kính trọng. Con cái lại nối dòng cha làm nghề giáo học, đấy là cậu Tú của con. Cụ chính là ông ngoại đấy. Còn đây là mộ cụ Hương, cụ quê dưới Vĩnh Yên, học hành đỗ đạt chữ nho rất cao, suốt ngày đọc chữ thánh hiền, được triều đình mời ra làm quan, cụ không nhận, khi Tây đến lập tòa Công sứ, cụ đã bỏ Vĩnh Yên lên đất này. Cụ không thèm dùng bất cứ thứ gì do Tây chế ra. Cụ tiễn nứa làm chén uống nước, cụ lấy thân tre làm bát ăn cơm, lấy mo cau làm dép. Trông thấy Tây, cụ không nhìn mặt. Lúc cụ chết gầy như thể ve sầu… Được sống với “người âm phủ” qua màn hương khói mà Học đã hình dung ra biết bao điều về đời người. Ở dưới vài mét đất kia, trước là những người đã từng hiện diện trên cõi trần này. Người phúc hậu, kẻ làm mưa làm gió, người để tiếng thơm, nhưng cũng bao người tai quái, người sống giàu sang phú quý, kẻ bèo bọt nghèo hèn. Giờ đây đều yên lặng. Chìm đắm trong mưa trong nắng ở giữa đồng hoang. Những đêm nóng nực, kê chõng nằm giữa sân, với chiếc quạt mo cau, tay ông Hách liên hồi phẩy đập xua muỗi cho các con. Sao nở rộ đầy trời, ông Hách giảng giải cho các con, đâu là Sông Ngân với con vịt lội, đâu là chùm sao Bắc Đẩu, đâu là chùm sao Bội Tinh, đâu là sao Thần Nông với chiếc gầu tát nước, cả chị Hằng, cả chú Cuội vốn xưa ở chốn trần gian. “Chú Cuội ngồi gốc cây đa, để trâu ăn lúa gọi cha ời ời, cha còn cắt cỏ trên giời, mẹ còn cưỡi ngựa đi mời quan viên”. Học và các em đồng thanh hát xướng râm ran, đứa nào cũng gân cổ lên mà hát. Át cả tiếng ếch nhái ao chuôm. Giọng ông Hách trầm trầm kể cho các con nghe sự tích của làng. Chẳng lần nào khác lần nào. Nhưng các con vẫn thích nghe ông kể. Chuyện bà Dong gặp đám mây đỏ giữa chiều. Chuyện về Đô thống Lân Hổ đánh đuổi quân Nguyên cứu nước cứu làng. Nhìn lên những vì tinh tú, Học và các em mặc sức tưởng tượng về những gì đã và sẽ xảy ra, tưởng như kho cổ tích còn đang cất giấu giữa trời. Rồi lại những khi đánh khăng, đánh đáo, đánh bi, đánh chắt đánh chuyền, làm đình, làm chùa, chơi trận giả khua gươm giáo gỗ, chơi cướp cờ, chơi rồng rắn lên mây, có cây núc nác… với những người bạn đồng lứa ở ngay sân đình, đã khắc sâu vào tâm trí tuổi thơ của Học. Hôm chia tay đám trẻ làng để lên trường tỉnh, Học đã cho tập hợp hết bạn bè thời thơ ấu để chơi trò rồng rắn. Cuộc đối đáp của rồng rắn với thầy thuốc thật là lạ, dù Học với bạn bè đã thuộc từng câu từng chữ: - Xin khúc đầu? - Những xương cùng xẩu! - Xin khúc giữa? - Những máu cùng me! - Xin khúc đuôi? - Tha hồ thầy đuổi. Cuộc đuổi bắt cứ theo mãi cuộc đời. Thật không sao giải thích nổi. Chương III CUỘC GẶP KHÔNG ĐỊNH TRƯỚC hãy tự biết trả lời những câu hỏi từ đắng cay gai góc dẫu chân trời kia những đám mây chưa báo trước điều gì Lâu lắm, Nguyễn Thái Học mới có một ngày được ngủ đẫy mắt. Cùng trọ học với Hồ Văn Mịch, chàng giáo viên tiểu học quê Ninh Giang - Hải Dương, vì ham muốn hiểu biết và cũng không chịu cảnh sống hạn hẹp quẩn quanh ở một vùng đất nên đã rời quê lên Hà Nội học Cao đẳng Sư phạm. Nguyễn Thái Học kết thân với Mịch, bởi cùng trọ học và sự cảm thông tự nhiên đối với con người đầy quả quyết, tư chất thông minh, giàu ý tưởng mới mẻ. Mịch rất hiểu tính tình Nguyễn Thái Học, cương trực, say mê học hỏi, ưa hành động và lúc nào cũng như thèm ngủ. Đặt mình nằm là ngáy. Mươi phút gục lên mặt bàn cũng được một giấc. Dăm phút co chân lên ghế cũng có thể khò khò. Thế mà hôm nay được ngủ cả buổi sáng, không cần biết trời đất là gì. Nguyễn Thái Học như thấy người khoẻ hẳn ra. Anh thầm cảm ơn Mịch đã tôn trọng giấc ngủ ngàn vàng, không làm ảnh hưởng tới những giây phút quên đời của anh. Vươn vai mấy lần, Học mới thật sự tỉnh táo. Nhớ trước lúc chìm vào giấc ngủ, Mịch đã nói điều gì với Học nhỉ? À, Mịch đọc những vần thơ trong bài “Chiêu hồn nước” của Phạm Tất Đắc. Những câu thơ cảm động đã làm cho Học lén lau nước mắt: Ngọn gió lọt đèn tàn hiu hắt Tiếng cuốc kêu đầy mặt anh hùng Nghiến răng nuốt cái thẹn thùng Mà chiêu hồn cũ lại cùng non sông… Học thấy Mịch vẫn ngồi đọc sách thì hỏi: - Mình ngủ được mấy tiếng rồi hả Mịch? - Chừng hơn ba tiếng thôi! - Thế cơ à? Sao không đánh thức mình? - Đêm qua cậu thức gần trắng đêm còn gì? - Đúng là thức gần trắng đêm. "Thượng đế ban cho chúng ta hi vọng và giấc ngủ để đền bù cho những nỗi lo lắng của cuộc đời"! Voltaire đã nói thế mà! Chỉ vì mấy cuốn sách của Phạm Tuấn Tài đưa cho đọc. Nó hấp dẫn bằng vạn lần những bài học nhạt nhẽo mà trường Bảo hộ nhồi nhét cho chúng mình. - Kết thân với Nam Đồng thư xã thật là tuyệt vời. Chừng như duyên trời cho chúng mình được gặp cánh họ. Bao nhiêu sách hay. Càng đọc càng mở mang đầu óc. Không có Nam Đồng thư xã thì tìm đâu ra "Lettres persanes" (Những lá thư của người Ba Tư); "De L'Esprit des lois" (Tinh thần pháp luật) của Montesquieu. La promenade du sceptique (Bước đi hoài nghi) của Denis Diderot. Le Contract Social (Hợp đồng xã hội), Émile ou de l’education (Êmile hay vấn đề giáo dục) của Jean Jacques Rousseau. Rồi "Lettres philosophiques" (Những lá thư triết học về nước Anh), "Encyclopédie" (Bách khoa thư), “Dictionnaire philosophique” (Từ điển triết học) của Voltaire… mà đọc? - Thật đáng nể phục những dịch giả Hoàng Phạm Trân, Nguyễn Ngọc Sơn, cùng anh Lâm, anh Tài đã cung cấp cho chúng ta những cuốn sách quý. - Không có những cuốn sách khai sáng chẳng khác nào chúng ta đi trong rừng rậm. Đối với người dân mất nước càng thấm thía thế nào là mất tự do, mất quyền bình đẳng và thiếu vắng tinh thần bác ái. Điều này các học giả phương Tây nói tới quá lâu. Giờ chúng mình mới được đọc. - Cũng phải nói là dịp may chúng mình được sống ở Hà Nội, được giao du, được tiếp xúc với các trí thức, được mở rộng tầm mắt. Chứ cứ loay hoay ở nhà quê thì đâu biết được những điều thật là lớn lao ấy. - Thế có nghĩa là cậu tự khen sự lựa chọn đến Hà Nội để học hành của chúng ta là sáng suốt? - Chứ còn sao nữa! Gần gũi với mình nhất vẫn là tư tưởng cách mạng của Tôn Dật Tiên. Mình nghiền ngẫm "Kiến quốc phương lược" của ông ấy thấy sát hợp với hoàn cảnh thực tế và ý tưởng của chúng ta. - Ông ấy từng sang Việt Nam năm lần. Ở số nhà 22 Hàng Buồm. Từng từ Việt Nam chỉ đạo cách mạng trong nước Tầu. - Thế ra Việt Nam mình cũng có công, qua Tôn Dật Tiên chỉ đạo đối với cách mạng Trung Hoa đấy chứ nhỉ! - Đáng để chúng ta ngưỡng mộ và không thể không vận dụng, đó là chủ thuyết Tam dân. Muốn có tự do, bình đẳng, bác ái, không thể không bảo đảm các quyền dân tộc, dân quyền, dân sinh. Phải thiết lập được thể chế dân chủ cộng hoà, mới mong thoát khỏi vòng nô lệ. - Chủ thuyết ấy phải trải qua thực tiễn đấu tranh của người Trung Hoa mới có thể rút ra được. Trước tiên là nó đúng với người Trung Hoa. - Đúng thế! Nhưng đối với Việt Nam, ta chỉ có thể vận dụng những gì phù hợp. Còn những gì không phù hợp cũng phải tránh. Người Tàu dù sao cũng khác ta… Chà chà, say sưa quá! Suýt quên quyền lợi của cái dạ dày! Có cái gì ăn không nhỉ? - Làm gì có? Hết gạo từ chiều qua rồi. Chỉ còn bịch khoai lang... - Thế thì ra phố làm bát phở. Mới được mẹ gửi cho ít tiền tiếp sức. Hai chàng trai khoác vai nhau ra phố. Loanh quanh chưa biết vào quán phở nào, thì chợt nhớ, có lẽ cánh Nam Đồng thư xã cũng chưa ăn gì, tới mời họ cùng đi. * Phố Trúc Bạch khá quen thuộc với hai chàng trẻ. Gió cuốn từ phía Hồ Tây thổi lồng lộng qua con đường đê, thổi dọc theo Cổ Ngư, len lỏi vào từng ngõ ngách ven hồ Trúc Bạch. Phố nhỏ có cái vẻ thơ thới, không quá ồn ã, những ngôi nhà ven phố còn nhiều dấu tích của thôn ổ làng quê. Ở đây có thể phóng tầm mắt xa xăm về phía Hồ Tây mờ mờ trong làn sương đục. Dấu tích của làng Trúc Yên xưa có nghề dệt lụa nổi tiếng, với câu ca: "Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng, May áo chàng cùng sóng áo em". Câu ca ấy chỉ còn tiềm vọng trong trí nhớ. Bước chân hai chàng trai như thể mộng du. Khói đúc đồng làng Ngũ Xã quẩn theo gió mang theo mùi khét than lửa. Họ vốn dân Kinh Bắc tài hoa, do nhu cầu đồ đồng thờ phụng của dân Hà Nội mà về đây mở mang làng nghề. Hai chàng trai vừa đi vừa nhắc về vùng đất xưa với một chút hoài niệm. Họ không sinh ra ở đây, nhưng từng con phố Hà Nội đều gợi trong tâm trí họ những điều bí ẩn không thể nào không khám phá. Nơi đây cách trường Sư phạm, nơi Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch tu nghiệp không xa. Đấy là ngôi trường nằm trên phía Cửa Bắc, có hàng cây sấu bốn mùa xanh tốt. Cũng vẫn con đường này mà mỗi lần đi qua Nguyễn Thái Học lại như thấy thân thiết hơn. Bởi nơi đây có những người bạn chí cốt. Chủ nhân Nam Đồng thư xã cũng vừa ngủ dậy. Chẳng mấy khi được cùng nhau hưởng những khoảnh khắc thư thái như thế này. Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài chỉnh tề trong áo quần sơ mi lịch lãm, chân xỏ giầy tây bóng lộn. Họ rủ nhau ra tàu điện rồi rông tuốt lên Quan Thánh, tới Hàng Đậu, tìm một quán phở ngon, chỗ ngồi thật yên tĩnh, để tận hưởng hương vị được coi là đệ nhất của đất Hà Thành. Quán phở nhỏ nằm gọn góc phố, thu hút nhiều khách ăn sành điệu. Những bát phở tái, phở chín, phở sốt vang, phở gà, nóng hôi hổi, tỏa khói bay nghi ngút. Hương phở thơm nức mũi. Nước phở có vị ngọt sâu, vô cùng hấp dẫn. Có thể nói đây là món ăn thanh lịch và yêu thích của nhiều đẳng cấp xã hội, đã tốn không ít giấy mực tán dương của các bậc tao nhân mặc khách. Chủ quán phở là một người ăn nói từ tốn dễ gần, có cô vợ trông đậm đà, má lúc nào cũng ửng hồng, đi đứng nhanh nhẹn, rất có duyên chiều khách. Ăn xong, Nguyễn Thái Học trả tiền chủ quán. Phạm Tuấn Lâm bảo, để bọn này trả, sinh viên các cậu tiền bạc đâu có nhiều? Học cười lớn: - Các bác cứ xem thường. Để Học đóng vai chủ nhà băng một lần chứ! - Chao ôi, được mẹ cho mấy đồng mà dám nhận là chủ nhà băng! Mọi người cùng cười vì câu đối đáp thân tình chí lý của hai chàng kẻ sĩ nghèo rớt. - Bây giờ ta đi đâu? - Phạm Tuấn Tài hỏi. - Vẫn phải về nơi cần đến. Thời gian đối với chúng mình không nhiều. Tranh thủ đọc. Tranh thủ học. Tranh thủ trau dồi tri thức là cần thiết nhất lúc này. Hồ Văn Mịch đồng tình: - Đúng đấy! Đã đọc xong "Trưng nữ vương diễn nghĩa" và cuốn "Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn" của các anh soạn thảo. Rất thiết thực và bổ ích với người dân xứ sở Việt Nam của chúng mình. Các anh cho mượn tiếp cuốn "Gương thành bại" và hẳn nhiên cuốn nào đọc có giá trị thì mượn tất. - Tham lam quá! - Những cuốn sách này rất cần thiết cho việc truyền bá những tư tưởng mới mẻ và cách mạng cho dân chúng rộng rãi vốn còn mờ mịt trong chính sách ngu dân của những kẻ cai trị. Học và Mịch mới quen Phạm Tuấn Tài, nhưng tiếng tăm của anh đã được mọi người biết từ lâu qua mấy bài thơ in trên tạp chí Nam Phong, với bút danh Mộng Tiên, từ những năm 1923. Bài “Đông dạ lữ hoài” thấm đẫm nỗi buồn da diết của người dân mất nước: Lạnh lẽo canh tàn khách thẩn thơ Đường kia nỗi nọ rối vơ tơ Trông về quê quán sương che khắp Ngảnh lại non sông tuyết phủ mờ… Lúc này, Mịch có thể đọc thuộc làu mấy bài thơ đó của Phạm Tuấn Tài. Về đến Nam Đồng thư xã đã thấy Nguyễn Ngọc Sơn đứng chờ. Rõ là cuộc hội ngộ như tạo hoá sắp đặt. Sơn chỉnh tề trong complet cravatte. Trông dáng vẻ đã toát lên hình ảnh của người từng du học, tiếp cận nhiều với văn minh hải ngoại. Đấy là vẻ ngoài, còn khi giao tiếp mới thấy Nguyễn Ngọc Sơn nói năng lịch thiệp nhã nhặn, cốt cách gần gũi, nho nhã. Gặp nhau là thân tình hồ hởi. Được biết Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch là sinh viên Cao đẳng sư phạm, Nguyễn Ngọc Sơn càng tỏ ra ân cần. Họ kết thân nhau rất chóng. Họ gặp nhau ở sức trai trẻ. Và có lẽ hơn hết đó là tấm lòng với những lớp người lầm than, với đất nước còn quá nhiều khổ đau, của cảnh dân nô lệ. Nguyễn Thái Học hỏi: - Ngọc Sơn đã ăn uống gì chưa? - Bánh mì, bánh mì! Xong bữa đơn giản. Thức ăn quá quen thuộc những ngày bên Tây. - Thế thì yên tâm. Không phải áy náy gì. - Gặp nhau hàn huyên là tuyệt rồi. Cả mấy người kéo nhau lên gác hai, nơi có căn phòng khách kín đáo, có bộ bàn ghế mây cũ, được xếp gọn gàng. Từ đây có thể phóng tầm mắt nhìn xuống đường và nhìn ra tận ngoài hồ Trúc Bạch. Nguyễn Thái Học tiếp tục câu chuyện với Nguyễn Ngọc Sơn. - Rất may cho tôi, gặp Ngọc Sơn ở đây. Chứ tôi đã định đi tìm Ngọc Sơn để xin thỉnh giáo về lá đơn tôi soạn gửi cho Toàn quyền Đông Dương, yêu cầu mở mang kinh tế, giúp đỡ dân nghèo. Tôi đã tham khảo ý kiến anh Hoàng Phạm Trân, anh Tuấn Lâm, anh Tuấn Tài... Định gặp nghe ý kiến của anh nữa. Bởi anh am hiểu về Luật, ý tứ sẽ chặt chẽ hơn. - Cảm ơn anh đã tin tôi. - Đây, anh xem đi, rồi cho tôi thêm ý kiến. - Năm ngoái anh đã từng gửi kiến nghị cho Toàn quyền Đông Dương rồi cơ mà? - Phải rồi! Năm ngoái tôi đã đệ đơn yêu cầu mở mang nền công nghệ và lập trường Cao đẳng công nghệ Bắc Kỳ cho con em bản xứ, cải cách nền công thương vốn dĩ lạc hậu què quặt. Nhưng không được phúc đáp. Tôi cũng đã trực tiếp gặp viên Toàn quyền Varenne, nhưng thái độ của ông ta rất lừng chừng... Các anh thấy đấy, cả nước ta số người được đi học chưa đến một phần trăm. Học sinh cao đẳng và học nghề cả miền Nam có 465 người, miền Bắc thì chưa đầy bốn trăm. Muốn chống nghèo nàn dốt nát bắt buộc phải mở trường không lấy tiền cho dân hạ cấp đến học, nhất là thợ thuyền và nông dân. Những vấn đề đó không thể không lên tiếng. Nguyễn Ngọc Sơn thở dài: - Nước Pháp vẫn nhận mình là nước văn minh, vậy mà có lá thư kiến nghị của người dân cũng không trả lời thì thật không sao hiểu nổi. Nguyễn Thái Học trao cho Nguyễn Ngọc Sơn bản giấy viết tay sạch sẽ trang trọng. Ngọc Sơn cầm lấy tờ giấy kiến nghị mới viết của Học, và nói: - Mới về nước, am hiểu tình hình còn hạn chế lắm. Nhưng anh đã tin tưởng, tôi xin lĩnh ý. - Tôi cho rằng đây cũng là thời cơ mà ta tỏ rõ ý chí và tâm nguyện của người dân Việt Nam và ý nguyện của tuổi trẻ đối với vận mệnh của đất nước. - Tình thế có thể đưa yêu sách cho Toàn quyền Đông Dương lúc này là hợp lý. Bởi tinh thần dân chủ ở Pháp đang được đề cao. - Tôi nghĩ thế. Bởi, Toàn quyền Varenne là đảng viên Đảng xã hội Pháp, mới nhậm chức đã quyết định ân xá cụ Phan Bội Châu và có nhiều hứa hẹn cải cách xứ thuộc địa. - Đấy là động thái ban đầu, cũng còn phải xem hành vi cụ thể. Biết đâu, đó chỉ là cách lấy lòng mà bất cứ tên thực dân nào cũng áp dụng. Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài và Hồ Văn Mịch ngồi nghe chăm chú. Đến lúc này thì Phạm Tuấn Tài mới nói xen vào: - Nhiệt huyết của chúng ta có thừa. Làm lay chuyển thái độ của bọn thống trị không dễ dàng. Nhưng không thể không lên tiếng. Tôi và anh Phạm Tuấn Lâm, anh Hoàng Phạm Trân rất ủng hộ cách suy nghĩ và những đề xuất của anh Nguyễn Thái Học. Trong thâm tâm Nguyễn Ngọc Sơn rất quý trọng Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài. Họ là nhân vật khởi xướng ra Nam Đồng thư xã. Nhưng cái lớn lao là biết cách tuyên truyền tinh thần yêu nước đến dân chúng. Những mẩu chuyện về Trưng Trắc, Trưng Nhị, chuyện Tôn Dật Tiên... được biên soạn rất dễ hiểu, lại được in thành những cuốn sách nhỏ, dễ truyền bá rộng rãi. Đấy là cách làm thông minh, khi dân chúng còn nhiều người chưa thạo chữ, không thể đem những cuốn sách dày cộp và những mớ lý thuyết rườm rà cho họ. Giờ lại được giao du cùng với Hồ Văn Mịch, Nguyễn Thái Học, những chàng sinh viên mà đã có chí lớn, được Tuấn Lâm, Tuấn Tài nể trọng, hẳn là những người sẽ làm nên chuyện cao cả cho đất nước. Nguyễn Ngọc Sơn đã thầm cảm phục. Đã từng sống trong lòng nước Pháp nên Ngọc Sơn rất hiểu về những gì thực tại của nước Pháp. Giống như kiểu bày hàng, văn minh tiến bộ được trưng phô ra phía trước, còn những thứ rác rưởi xấu xí được che đậy sắp đặt đằng sau những vẻ hào nhoáng. Đó là sự đói nghèo bần cùng của dân lao động, của thất nghiệp khuất lấp sau những phố xá sầm uất. Đó là sự phân biệt đối xử có thể gặp bất cứ ở đâu. Được Nguyễn Thái Học hỏi ý kiến về bản kiến nghị gửi Toàn quyền Đông Dương, Nguyễn Ngọc Sơn đọc kỹ lưỡng từng đoạn. Đây là ý kiến cá nhân của Nguyễn Thái Học, đầy tinh thần trách nhiệm với đất nước, lời lẽ khúc chiết, có tính mục đích rõ ràng. Đáng nể ở lòng dũng cảm. Còn đáng nể ở văn phong chặt chẽ, thấu đáo về lý lẽ. Tuy Nguyễn Thái Học không được học luật, nhưng một cử nhân như Sơn, được học tận Paris, cũng phải nể trọng về tính thuyết phục của văn bản. - Tôi thấy rằng anh đã cân nhắc kỹ khi đặt bút viết những dòng này. - Tôi muốn anh bổ khuyết cho tôi về văn luật. - Thế là ổn rồi anh ạ. Vấn đề là nội dung cần thiết phải nói thì anh đã nói khá rành mạch. - Cảm ơn anh. Như vậy tôi yên tâm để gửi văn bản này đi. Nguyễn Thái Học rất cảm kích trước nhận xét của Ngọc Sơn. Anh thầm nghĩ, có được những người tâm giao cùng chí hướng như rừng thêm cây, như nước thêm nguồn. Thật là an tâm khi bên cạnh mình có những người có khả năng chỉ dẫn cho mình những điều còn khiếm khuyết. Đã có người nói, trước mặt anh có ba người thì thể nào cũng có một người là bậc thầy. Anh coi bạn bè như thầy. Nguyễn Ngọc Sơn cũng như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch xứng đáng bậc thầy. Còn một người nữa, anh chưa hỏi ý kiến, đó là Phó Đức Chính. Chàng trai trẻ nhất trong số bạn bè, đang làm bổn phận tham tá công chính tận bên Lào. Nguyễn Thái Học thốt nhiên hỏi: - Anh Tài này, Phó Đức Chính đang ở đây? - Phải rồi! Mới ở Xavanakhet về. Anh ấy đang cùng Hoàng Phạm Trân đi thư viện từ sáng sớm. Gớm, hai cái ông mọt sách. Hở ra thời gian nào là đến thư viện. Kìa, hai chàng đang về kia. Hoàng Phạm Trân và Phó Đức Chính mỗi người ôm một chồng sách nặng. Phạm Tuấn Lâm đỡ mấy cuốn sách Phó Đức Chính đưa. - Thiêng thật! Vừa mới nhắc tới Chính thì Chính đã có mặt. - Đi cùng anh Hoàng Phạm Trân, nhân thể mua tờ nhật báo. Chào tất cả các anh. Vui quá, không hẹn mà gặp. Toàn bậc hiền nhân. - Khác gì người hiền tụ nghĩa. Đúng rồi, không phải tụ nghĩa bàn đào mà là tụ nghĩa bàn trà! Phó Đức Chính và Hoàng Phạm Trân bắt tay mọi người trong phòng. - Đi với Chính, mình thua thiệt đủ đường. Các nàng ở thư viện cứ bâu lấy chàng khen trẻ thế mà đã là kỹ sư công chính. - Thì anh có lép gì đâu? Cái cô hàng xén ở Hàng Đào chả ríu rít, anh viết báo có nhuận bút là phải đãi chúng em một bữa liên hoan đấy! Viết báo mà chơi với các cô hàng xén thì đâu có thiệt thòi? - Ôi dào, các cô không bám các chàng mới là chuyện lạ! Nguyễn Thái Học bảo: - Phó Đức Chính này, đây là bản kiến nghị gửi Toàn quyền Đông Dương, mọi người đã xem và cho ý kiến. Còn Chính xem nữa, rồi góp ý cho mình. - Thôi, khỏi xem, mọi người góp ý là đủ rồi. Cứ gửi tới đi! - Nào, xem nhật báo hôm nay có tin tức gì mới không? - Tin tuyển mộ phu đi đồn điền cao su Nam Kỳ. Lại tin bắt bớ, tình nghi chống chính quyền bảo hộ. Tin không có tiền đóng thuế, một nông dân đã dùng bả chuột đầu độc vợ con rồi thắt cổ tự tử. - Lại tin bắt đám thợ nổi dậy đánh chủ mỏ bị bắt vào tù... - Nhục nhã! Còn nô lệ còn nhục nhã. Người Pháp lại có quyền bắt người Việt bỏ tù ngay trên đất Việt. Là sao? - Một xã hội bế tắc! Bế tắc! - Làm gì để cứu dân tộc, cứu đồng bào mình trong lúc này? Mỗi người một câu. Không khí trong phòng bỗng trở nên sôi sục và nghiêm trang. - Đất nước tang thương. Vua quan thối nát. Dân tình khổ đau. Đấy là bức tranh xám xịt hằng ngày ta phải chứng kiến. - Bọn Pháp thì vơ vét tài nguyên. Quan lại thì khom lưng uốn gối. Vinh thân phì gia. Trăm nỗi khổ đau đè nặng lên tấm thân người nghèo khổ. Sôi nổi nhất là ý kiến của Phó Đức Chính: - Chúng mình không thể khoanh tay đứng nhìn cảnh đất nước tủi nhục. Phải chứng tỏ người Việt Nam không hèn, không chịu nhục. Không thể để cho người Pháp muốn làm gì thì làm đối với dân ta. Tôi cho rằng chúng ta phải hành sự. Điều này trông chờ ở anh Nguyễn Thái Học, với ý chí và sự thông tuệ, đứng ra tập hợp anh em. Tôi sẽ là người tình nguyện. - Không có cách gì khác, chúng ta phải chứng tỏ con dân nòi giống Lạc Hồng bằng hành động. - Đúng rồi! Chúng ta cần phải dấn thân cứu nước. - Việc này phải làm sớm. Không thể chần chờ được. Nguyễn Thái Học thấy những điều bàn luận của mọi người thật xác đáng. Nói về lòng yêu nước bất khuất, dân ta có thừa. Từ những trang sử của cha ông chống phong kiến phương Bắc bao nhiêu triều đại, đến những cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp vô cùng oanh liệt. Những tấm gương của Đề Thám, của Đội Cấn còn đó. Tất cả bị dìm trong máu. Rồi Phạm Hồng Thái mưu sát Henri Merlin Toàn quyền Đông Dương ở Sa Diện bên Tàu. Rồi cụ Phan Chu Trinh, cụ Phan Bội Châu với trí năng uyên thâm mong tìm con đường cứu lấy nước nhà, hết Duy Tân đến Đông Du, nhưng đều bất lực trước cường quyền. Nguyễn Thái Học càng thấy vững tin ở tuổi trẻ. Nhiệt huyết, chân tình, sẵn sàng xả thân vì nước. Mỗi khi gặp nhau là bao ý tưởng nảy nở. Đấy là những người bạn cùng chí hướng. Dám lấy nghĩa lớn để phụng sự. Anh nói quả quyết: - Phải hành động! Ngay ngày mai chúng ta đều có trách nhiệm vận động thêm người tham gia cách mạng. Không chỉ Hà Nội, mà phải như vết dầu, loang ra khắp bản đồ toàn quốc. * Cuộc đàm đạo kéo dài cho tới đêm mà không ai để tâm. Ý tưởng làm cách mạng để giải phóng đất nước càng nung nấu. Mỗi người một ý kiến xoay quanh việc phải thành lập một tổ chức để tập hợp mọi người cùng đứng lên đánh đuổi ngoại xâm giành Độc lập, Tự do cho đất nước. Quá muộn. Nguyễn Ngọc Sơn rủ mọi người ra phố Sinh Từ ăn tào phớ. Vừa tới đầu phố, thấy phía trước huyên náo. Mọi người dừng lại, hỏi thì ra đang có cảnh bắt bớ của bọn mật thám nằm vùng với người chúng nghi là có hoạt động chống đối nhà cầm quyền. Phạm Tuấn Tài không kìm được: - Thời buổi thật nhiễu nhương! - Khốn nạn! - Chừng nào mới khỏi phải chứng kiến những cảnh trớ trêu này ngay trên đất nước mình? - Không nơi nào được yên ổn! - Thôi hẹn khi khác gặp nhau vậy nhé! Mọi người tản theo các ngả phố, mất hút vào các ngả đường Hà Nội. Phó Đức Chính không quên nhắc Nguyễn Thái Học: - Thể nào anh Học cũng nhớ cho chúng tôi về thăm quê hương Thổ Tang của anh đấy nhé. - Nhớ, nhớ! Thổ Tang quê mình ngoài nghề tằm tang nổi tiếng, buôn bán tần tảo, con gái tài sắc đảm đang lắm. Và, mình còn có ông bố, bà mẹ, cùng các em rất tuyệt vời. Chương IV NGẢ ĐƯỜNG DANG DỞ sương nắng âm thầm tóc mẹ nuôi dưỡng đức tin con vị ngọt chắt ra từ mật đắng có thể chữa lành vết gai cứa thời gian Được coi là sâu ngủ, vậy mà từ lúc chia tay với mọi người trở về nơi trọ, Nguyễn Thái Học đặt mình nằm rồi vẫn không sao chợp được mắt. Những điều bạn bè nói đã khiến cho tâm trạng của anh không yên. Đó là những điều hệ trọng liên quan đến vận mệnh đất nước và tính mệnh từng người. Anh có thể đứng ra cùng với mọi người lập nên một tổ chức với mục đích làm cách mạng để cứu quốc gia, cứu dân tộc. Nhưng gánh vác vai trò đứng đầu tổ chức đó thì anh còn phải cân nhắc thật kỹ. Trọng trách ấy khiến anh càng lo lắng. Anh phải bắt đầu như thế nào? Điều đó thật không dễ dàng. Không thể phụ lòng tin của mọi người, anh vạch ra trong đầu một kế hoạch vận động tuyên truyền rộng khắp những người có thiện chí, lập ra tổ chức đấu tranh với thực dân và những kẻ quan lại đồi bại. Nhưng con đường phía trước còn dài và biết bao khó khăn chưa thể lường trước được. Trời nóng như nung. Chiếc quạt nan không đủ sức xua mồ hôi túa ra dưới tấm lưng dính vào tấm phản mộc. Muỗi được dịp khuấy động không gian bằng một thứ âm thanh nhấm nhẳng cực kỳ khó chịu. Nguyễn Thái Học bật dậy chạy ra vòi nước công chảy ri rỉ góc phố. Anh mở khóa vòi nước cho chảy thấm vào chiếc khăn, rồi thấm lên khắp người. Nước xoa dịu bớt cái nóng. Nước làm cho anh thêm tỉnh táo. Những ngày học trường sư phạm cùng với Hồ Văn Mịch hiện về như một cuốn phim câm. Rời khỏi trường tỉnh về đất kinh kỳ học, tưởng rằng có gì thật sự mở mang. Nào ngờ, vẫn tiếp tục nhai cái mớ lý thuyết nô dịch. Chỉ những giờ được giảng về cách mạng 1789 ở Pháp là thu hút sự chú ý của Nguyễn Thái Học. Anh chăm chú nghe về đội quân cách mạng đã lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế của Louis XVI, đánh đòn chí mạng vào bọn quí tộc tăng lữ độc đoán và khắc nghiệt, quan liêu và tham nhũng. Lại nhớ, hồi Nguyễn Thái Học còn học Diplome trường tỉnh, khi làm bài thi với đề "Hãy nói rõ sự nghiệp của Jules Ferry". Nguyễn Thái Học cảm thấy xót xa như bị xúc phạm. Chỉ biết đó là nhân vật nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Pháp. Thế cũng đủ rồi. Cớ làm sao lại phải làm bài về sự nghiệp của một người xa lạ với dân tộc, Tổ quốc mình. Sao không nói tới sự nghiệp các anh hùng khai quốc, cứu quốc: Hùng Vương, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Quang Trung… đã bao đời làm vẻ vang cho đất nước? Mọi người cắm cúi làm bài. Còn Nguyễn Thái Học thản nhiên ghi vào bài làm: "Người Việt Nam không hề biết người này"! Nguyễn Thái Học bị đánh trượt ngay tức khắc. Khi giám hiệu cho gọi Nguyễn Thái Học tới để khiển trách, đã hỏi: “Tại sao học trò lại có hành động thiếu suy nghĩ như thế?”. Nguyễn Thái Học đã trả lời: “Tôi không thiếu suy nghĩ mà tôi nghĩ thế nào thì tôi viết ra như thế!”. Chuyện ấy có lần Nguyễn Thái Học đã kể cho Hồ Văn Mịch nghe. Hồ Văn Mịch bảo: - Anh thật cương trực. Tôi cũng nghe quá nhiều những điều truyền giảng về lịch sử Pháp, cũng thấy chán ngấy về sự gò ép. Tại sao người Việt không được học sử Việt? Bao nhiêu trang chống các triều đại phong kiến phương Bắc chói chang của dân tộc mình, không được mảy may nhắc tới. - Đấy là một nền giáo dục nô dịch. Đào tạo nên lớp người làm tay sai hơn là người được hành nghề chân chính. - Ta phải làm đảo lộn lại. Chí ít là phải lên tiếng phản kháng với chính quyền bảo hộ. Chúng tôi đặt niềm tin vào Học. - Mình chỉ sợ quá sức. Nhưng mình sẽ cố gắng. - Trước mắt phải bắt đầu từ học đường. - Đúng là cần phải cải thiện ngay luật lệ học đường. Không để bọn me tây xúc xiểm, hà hiếp những người dân lành. Ở trường Cao đẳng sư phạm, Nguyễn Thái Học và Hồ Văn Mịch từng chứng kiến bao cảnh trớ trêu, phân biệt giữa con cái đám me tây và con cái người bản xứ. Không ai dám đứng ra bênh vực người yếu thế. Trường có giám thị Thược, trước là lính tẩy, nên cử chỉ rất lố lăng, hống hách, hay đặt chuyện tâng công với chủ, xử phạt học trò vô cớ, gây oan ức cho nhiều người, thường bị học trò ngấm ngầm phản kháng. Một lần, giám thị Thược vào lớp, theo thói quen, vừa mở ngăn kéo bàn để cất tài liệu sách vở, chỉ kịp kêu ối một tiếng, đã bị đám ong vò vẽ do mấy học trò lấy tổ bí mật nhốt vào đó, được dịp bay túa ra, cứ mặt giám thị Thược mà đốt. Giám thị Thược nhẩy câng câng la hét toáng giời đất. Đám ong thấy hơi lạ trong miệng giám thị phả ra, càng đốt hăng. Mặt giám thị sưng như nồi đất úp. Những thứ trò tinh nghịch ấy của đám nhất quỷ nhì ma không thiếu gì. Cả lớp được trận cười đã đời. Hình như sau lần bị ong vò vẽ đốt, giám thị Thược cũng thấy chờn đám học trò vô sừng vô sẹo! * Nhìn lên bầu trời chi chít những sao, báo hiệu nắng nóng còn tiếp tục trong những ngày tới. Tự dưng Nguyễn Thái Học thấy nhớ nhà. Lúc này nếu ở quê, anh chỉ việc ra giếng làng vục thoả sức những gầu nước trong mát, dội vô tư lên cơ thể, cái mát thấm vào tận gan ruột. Rồi anh vác chiếc chõng tre ra sân hưởng gió trời, chắc hẳn sẽ có một giấc ngủ quên thiên địa. Nóng làm cho anh như muốn chạy ngay về quê, không đợi đến sớm mai. Lâu lắm anh mới có cảm giác nhớ quê đến vậy. Hình ảnh người mẹ tần tảo nắng sương, đòn gánh trĩu vai, lần hồi khắp chợ huyện sang chợ tỉnh, hết chợ tỉnh về chợ làng, luôn trăn trở trong tâm trí anh. Dấu chân mẹ in khắp mấy tỉnh Hà Đông, Sơn Tây, Việt Trì, Chợ Nỷ sang Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Dương, Hưng Yên... Đôi vai quang gánh lúc nông tang, lúc quẩy hàng vải góp nuôi sống cả nhà. Anh biết nói sao với mẹ về chuyện học xong Cao đẳng sư phạm, đã thi đậu được bổ dụng thừa phái, không đi làm mà lại xin đi học Cao đẳng thương mại. Còn một việc nữa, liên quan tới riêng tư, anh không muốn ràng buộc đến người mà cha mẹ anh đã chọn cho anh. Lý do, anh còn có những việc ở phía trước. Những việc liên quan đến tính mạng, liên quan tới cuộc sống, không phải chỉ cho riêng anh, mà là cho cả mọi người. Anh không muốn để cho người vợ chỉ là mang danh nghĩa phải khổ vì anh, phải khổ vì sự mỏi mòn trông đợi. Mà không thể trông đợi khi lý trí anh, tình cảm anh đã dành cho những chuyện đại sự. Anh sẽ không thể chỉ bó mình ở làng quê. Chí làm trai, không gì kìm hãm được anh. Chỉ mong sao mọi chuyện êm thấm, để anh tiếp tục ý tưởng của mình. Anh còn phải học, còn phải học rất nhiều. Anh thầm nghĩ, không thể bằng lòng với vốn hiểu biết quá nhỏ nhoi của mình, muốn làm được việc lớn, không đâu khác là phải học. Những kiến thức anh thu lượm được trong trường sư phạm chưa thấm tháp gì. Hơn nữa, nhà trường mới chỉ dạy cho mỗi người làm cái máy nói, làm cái công cụ truyền bá tư tưởng nước lớn của thực dân. Anh cũng sẽ như tất thảy mọi người phải cam phận phụng sự cho ngoại bang. Nô lệ và tiếp tục nô lệ. Điều đó anh không thể. Anh chọn học Cao đẳng thương mại là để mở mang tầm nhìn. Muốn làm cách mạng phải biết giao thương. Phi thương bất hoạt. Phi công bất phú. Phi trí bất hưng. Phi nông bất ổn…Các cụ xưa dạy thế. Phải biết cách làm giàu. Phải biết đưa dân tộc thoát khỏi thân phận nghèo hèn. Những suy nghĩ nung nấu liên tục ập tới, làm cho Nguyễn Thái Học bước về tận lối rẽ mới chợt nhận ra là mình suýt nữa đi quá độ đường. Làng Thổ Tang trù phú hiện ra bên cánh đồng lúa. Con đường lát gạch, chạy hút vào trong cổng làng, chạy qua ngôi đền Thổ Tang thờ Lân Hổ. Tương truyền Lân Hổ sức mạnh phi phàm. Khi quân Nguyên Mông đóng quân dọc Sơn Vi - Bạch Hạc, quấy phá dân ta, Lân Hổ đã xin vua Trần ngựa và đúc chuỳ sắt, cùng nhân dân phá tan quân giặc, được Vua ban tặng tám chữ: "Nam thiên tráng khí, Bắc khấu hàn tâm". Trời Nam khí mạnh, giặc Bắc lòng run. Khi Lân Hổ mất, dân lập đền thờ, gọi là đền Đô Thống đại vương, ngay bên đình Thổ Tang. Nguyễn Thái Học nhớ như in lời các cụ già vẫn kể lại sự tích về Lân Hổ với mầu sắc thần bí. Người này có mẹ là Phùng Thị Dong, còn gọi là Bà Trúc, ra đồng cấy lúa, chợt có đám mây đỏ từ trời phủ xuống, đám mây đỏ toả ánh hào quang sáng rực, rồi cuốn chặt lấy bà. Từ đó bà có thai. Không chồng mà chửa, bị đuổi ra khỏi làng. Bà vào đồi trúc làm lán ở và sinh con trai ở đó. Người con khôi ngô tuấn tú, ăn nong, uống chậu, ba tuổi biết bổ củi, bảy tuổi biết dắt trâu đi cày, lớn lên có sức mạnh đặc biệt. Dân làng bảo người này "phi lân tắc hổ". Không phải kỳ lân cũng là mãnh hổ, nên gọi tên là Lân Hổ. Khi quân Nguyên Mông tới, Lân Hổ đã chiêu mộ dân binh nhất tề chống giặc. Trận chiến nổ ra ngay tại đất Thổ Tang. Giặc tháo chạy, Lân Hổ đuổi sang tận đất Phong Châu. Bị tướng giặc chém ngang cổ, vẫn lấy đai áo rồng buộc lại, tiếp tục tấn công địch. Đến tận Cao Xá mới chịu ngã xuống. Đô Thống Lân Hổ được thờ ở Miếu Trúc, nơi mẹ Lân Hổ làm lán sinh con và được thờ ở đền làng Thổ Tang để ghi dấu công tích của người tuẫn nạn vì dân vì nước. Cũng từ mảnh đất đầy kỷ niệm tuổi thơ sâu sắc này, Nguyễn Thái Học đã bước ra khỏi làng, tới Vĩnh Yên, tới Việt Trì để học hành, rồi tới Hà Nội, mỗi cấp một học một xa thêm. Trở về làng, anh không khỏi rưng rưng trước những hình ảnh quá chừng thân thuộc. * Nhớ tới chuyện cần thưa với cậu Tú, người đã có công dạy dỗ Nguyễn Thái Học chữ nho suốt những năm thơ ấu, anh tạt qua cuối ngõ đến nhà thày dạy học trước khi về nhà. Cậu Tú vừa dạy học cho đám trẻ xong, đang cho thu dọn bàn ghế thì Nguyễn Thái Học đến cung kính chào: - Dạ thưa, con chào thày! - A, Nguyễn Thái Học, thày chào con. Con về bao giờ vậy? - Con mới về, con đến thẳng đây thày ạ! - Anh vẫn giữ cái phép trọng thày, đúng, nhưng mà không câu nệ. Cứ về bên nhà trước, rồi sang thày sau cũng được. - Con về lần này có việc thưa với thày. - Con cứ nói. - Trước khi nói, cho phép con được lễ thày ba lễ. - Con không phải thế. Có gì cứ nói! - Xin phép thày, con biết chuyện này thất lễ cùng thày, chuyện thày và thầy mẹ con gây dựng chị Cửu cho con, nhưng vì điều kiện đời con phiêu bạt, chẳng biết khi nào mới trở về quê, để chị Cửu chịu khổ vì con, con không nỡ. Con thật có lỗi với chị ấy. Lại có lỗi với cả hai gia tộc. - Cửu là cháu bên vợ thày. Đúng là nó cũng khó xử. Có chồng mà chưa được gần chồng. Gả Cửu là do giao ước ngày xưa của hai gia đình. Bây giờ, ý con đã thế, thày biết nói sao? - Quả thật là con rất khó nghĩ. Nhưng mà trí con chưa thỏa, cuộc đời con còn đi xa, chưa biết điều gì bất trắc sẽ xảy ra. Thuyền chưa định đậu bến nào. Con muốn chị Cửu được tự do, được hưởng hạnh phúc. Mấy năm giời chị ấy đã hi sinh tuổi xuân vì con. Để chị ấy được có cuộc sống lâu dài, con không thể bắt chị ấy tù túng vì con. - Chí trai đã vậy. Thày nào dám ngăn. Cậu Tú pha trà mời cậu học trò cưng thời thơ bé. Giờ cậu đã chững chạc, nói năng rành mạch, lễ độ. Hai thày trò còn ngồi đàm đạo về thế sự khá lâu. Cậu Tú không ngờ cậu học trò nhút nhát ngày nào, giờ am hiểu thời thế đến vậy, lại có chí anh hùng tái thế táo bạo vậy. Chỉ là thày giáo làng, thày chẳng mấy khi được mở rộng tầm mắt ra cả nước. Nghe Nguyễn Thái Học nói về những ý tưởng lớn lao, cậu Tú trầm ngâm một lát rồi nói: - Đúng là không gì hơn chí làm trai. Làm trai cho đáng nên trai mà. Chuyện vận nước là việc cần đến chí lớn. Thày chỉ khuyên con phải hết sức thận trọng. Việc gì cũng phải tính toán cho kỹ, không để những điều khinh suất xảy ra. Quê mình, bên Vũ Di có tấm gương ông Đội Cấn đó. Cũng là ưu thời mẫn thế. Thất bại, nhưng lòng trung để lại muôn đời. Lòng yêu nước của dân làng mình thật đáng trọng, đáng trọng. - Lần trước về làng, con gặp mẹ ông Đội Cấn ở Cầu Hương. Cụ ấy cứ níu lấy tay con bảo rằng, hãy trả thù cho con cụ. Bà cụ gầy yếu xác xơ quá. Nhưng trái tim của bà mẹ thì rực lửa. - Làm sao mà nguôi được? Thương nhớ con đến héo hắt. Đã thế đám chức dịch có để yên đâu. Nay chúng lôi lên hạch sách, mai chúng lôi lên tra vấn. - Con đã đi nhiều nơi thấy đám chức dịch luôn ỷ thế, đục khoét dân đen, tiêu lạm của công, bợ đỡ quan trên. - Chuyện thời thế còn đau lắm con ạ! - Kính thầy, bây giờ con phải về ! - Chúc con mọi sự an lành, con nhé ! Nguyễn Thái Học không ngờ cậu Tú lại có cách ứng xử bao dung độ lượng như vậy. Cứ tưởng cậu phản đối quyết định chia tay của anh với Cửu. Nhưng cậu lại còn nói, ai buộc cánh được chim hồng hạc. Cửu là cháu bên vợ cậu. Cửu được tự do sớm ngày nào là được hạnh phúc ngày đó. Không phải trói buộc vào lễ giáo cổ xưa. Tiếng là cha mẹ lấy vợ cho, nhưng Nguyễn Thái Học chưa có dịp gần gụi với vợ. Cửu hơn anh hai tuổi, đã mấy năm chợ búa giúp bà Quỳnh nuôi anh ăn học. Không thể lợi dụng để Cửu lỡ dở tuổi thanh xuân. Nhưng bây giờ gặp Cửu sẽ nói như thế nào? Sẽ nói như thế nào để Cửu cảm thông và chấp nhận yêu cầu của Học? * Nguyễn Thái Học trở về nhà vừa lúc bà Quỳnh và Cửu đi chợ về. Anh đỡ gánh cho mẹ, xuýt xoa: - Mẹ tham việc vừa thôi. Cũng cần phải nghỉ ngơi lấy sức mẹ ạ. - Gớm, con trai lo cho mẹ vậy. Lo mà cứ đi biền biệt? Lần này về nhà có lâu không? Nguyễn Thái Học xuê xoa: - Cũng không lâu đâu mẹ ơi. Con của mẹ còn phải học hành mất nhiều thời gian lắm. - Học hành hay còn chuyện gì khác? - Mẹ yên tâm đi ! Không có chuyện gì khác đâu. Con của mẹ lúc nào cũng chỉ mong xứng đáng với mẹ! - Chỉ khéo lấy lòng mẹ thôi. - Thầy con và các em con đâu, hả mẹ? - Thầy con đi cày. Bình, Ưu đi giúp cha ngoài đồng. Nho đi học. Lâm cõng em Nỉ đi chơi đâu đó bên hàng xóm. Nguyễn Thái Học quay sang nói với Cửu, vừa cất quang gánh vào trong nhà ra: - Cửu vất vả quá, thông cảm với tôi nhé. - Không có gì đâu. Học không phải lo cho tôi. - Tranh thủ, tôi với Cửu nói chuyện riêng một chút ! - Chuyện cần lắm không? - Chuyện cần lắm! Cửu tự nghĩ trong lòng, từ ngày về làm vợ Nguyễn Thái Học đã bao giờ hai người ngồi nói chuyện với nhau đâu. Học cứ đi biền biệt, chăm lo đèn sách. Cửu ở nhà lo cắm cúi làm việc. Thì phụ nữ từ xưa đến giờ vẫn thế. Vò võ chờ chồng hình như là bổn phận. Về nhà chồng chỉ biết cúc cung tận tụy với giang sơn nhà chồng. Muốn tự giải phóng có dễ đâu. Tập tục xưa là vậy. Đã ai dám phá vỡ? Giờ Học chủ động nói chuyện, sẽ là thời cơ để Cửu bộc bạch suy nghĩ của mình. Trời chiều, cái nắng còn sót lại chiếu hắt lên ngọn cau một vệt sáng yếu ớt. Hoa cau thả từng hạt li ti trắng lên mảnh sân nhỏ. Hương cau thoang thoảng trong gió. Hai người ngồi bên gốc cây khế nói chuyện. Bà Quỳnh ngó thấy hai đứa nói gì có vẻ thầm thì quan trọng thì lánh vào trong nhà để hai đứa tự nhiên. Nguyễn Thái Học bắt đầu câu chuyện một cách dè dặt: - Về tuổi đời, đáng lẽ tôi phải gọi Cửu là chị. Nhưng gia đình đã sắp đặt. Nay tôi liên tục đi xa, chẳng biết lành dữ thế nào. Tôi biết, tôi không làm được gì có ích cho Cửu. Tôi rất có lỗi với Cửu. Tôi muốn rằng không để Cửu phải khổ vì tôi. Tôi cũng đã thưa chuyện với cậu Tú. Chắc Cửu hiểu nỗi lòng của tôi. Cửu lặng đi giây lát, rồi nhẹ nhàng nói với Nguyễn Thái Học: - Tôi cảm ơn suy nghĩ và lời nói của Học. Chúng ta lấy nhau là do cha mẹ đã gá ước từ trước. Về nhà bên này tôi được cha mẹ và các em rất quý mến. Như vậy là đã làm tròn bổn phận khi Học xa nhà. - Tôi còn tiếp tục đi xa nữa, còn phải phụng sự cho lý tưởng, cống hiến cho Tổ quốc, tính mạng tôi đã thuộc về tổ chức. Nếu được Cửu bằng lòng, chúng ta có thể thoái hôn, để Cửu còn đi xây hạnh phúc. Tôi không có quyền giữ Cửu, không có quyền làm lỡ cuộc đời của Cửu. Không có quyền... - Tôi cũng phần nào nghĩ như Học, nhưng chưa có dịp thuận tiện nói ra. Tôi bằng lòng theo ý Học. Chỉ có điều làm sao êm thấm cả hai họ tộc. - Con đường phía trước còn quá nhiều sóng gió gian truân, còn nhiều bất trắc, không thể để liên luỵ tới Cửu. Mong Cửu thuận tình. - Tôi đã nói, Học cứ yên tâm, vì sự nghiệp, tôi không thể cản đường… - Tuổi xuân phụ nữ có thì, không thể vì tôi mà để lỡ… - Cắt đứt nhau, tôi cũng đau lòng lắm, như thế là Học đã vì tôi, xin ghi lòng tạc dạ. Mỗi một câu nói đều đẫm nước mắt. Nguyễn Thái Học quì xuống bên chân Cửu, hai tay nắm lấy tay Cửu nâng lên và đặt cái hôn dài lên bàn tay đang lạnh toát. Học nói với Cửu trong niềm cảm thương sâu xa: - Từ ngày lấy nhau tới giờ, lần đầu xin được hôn Cửu, được hôn bàn tay tảo tần mưa nắng của Cửu, hôn bàn tay đã góp phần cùng mẹ tôi đồng áng gió sương chợ búa, nuôi nấng chăm sóc cả nhà. Cái hôn này của sự ngưỡng vọng. Cái hôn này là lời nhận lỗi với Cửu. Từ nay cho Học được gọi chị Cửu với niềm quí mến, trân trọng. Cửu ôm chặt mái đầu Học vào ngực mình trong thổn thức. Nước mắt Cửu từ từ chảy xuống gương mặt cũng đầy nước mắt của Học. Cứ thế, cứ thế hai người lặng đi trong thương cảm, để rồi họ chia tay nhau mãi mãi. Rồi hai người ra giếng đá làng, múc đầy chậu nước mát, cùng vã nước lên lau mặt mình. Mặt trời khuất xuống bên kia rặng tre cuối bãi dâu tằm. * Bữa cơm tối, đầy đủ cả nhà, Cửu xin phép thưa lại chuyện với cha mẹ và các em: - Thưa thày mẹ. Con với Thái Học rất quí trọng nhau. Nhưng duyên trời không cho được gần gũi. Từ ngày chúng con lấy nhau, Học đi xa biền biệt. Nay Học dũng cao chí cả, muốn bay xa thỏa sức vẫy vùng, muốn phụng sự chí trai cho non sông đất nước, con phận liễu yếu quẩn quanh, không nỡ nào cầm chân Học. Nay cho chúng con được phép cắt mối lương duyên. Ông Hách chống đũa, nhìn Học rồi nhìn Cửu: - Các con đã tính toán kỹ chưa? Làm thày mẹ, chỉ muốn vun vén cho các con. Từ ngày Cửu làm dâu thầy mẹ, chưa hề có điều tiếng gì. Cơm ngon canh ngọt. Thức khuya dậy sớm. Tần tảo làm lụng. Kính trọng thày mẹ, nhường nhịn các em. Xứng đáng là chị dâu cả trong gia đình. Thày mẹ thật khó xử. Nguyễn Thị Cửu vội nói thêm: - Đây là lời nói chân tình của con, con không trách thầy mẹ, con cũng không trách Học. Chỉ vì không muốn cản bước đường của Học mà con nói như vậy. Con mong thầy mẹ tha thứ. Bà Quỳnh nước mắt ngắn dài: - Từ ngày con về với thầy mẹ, chịu thương chịu khó, không việc gì phải phàn nàn. Bây giờ sự thể lại như thế này. Mẹ rối ruột quá. Không biết khuyên can ra làm sao. Mẹ chỉ biết cầu trời khấn Phật dẫn đường chỉ hướng sao cho mọi sự an lành. Việc quyết định như thế nào, bây giờ là quyền các con. - Con vẫn là con mẹ. Con mong mẹ cũng coi con như vậy. Nguyễn Thái Học từ tốn thưa: - Con đường đi của con còn tiếp tục xa quê. Không có điều kiện gần bên Cửu. Con biết, quyết định của chúng con sẽ làm thầy mẹ và họ hàng băn khoăn. Chúng con đã bàn bạc kỹ lưỡng. Kính mong thày mẹ chấp thuận. Ông Hách trầm ngâm: - Thầy chỉ sợ thất lễ với bên gia đình cậu Tú. - Con đã thưa với cậu Tú. Cậu đã tha thứ cho con. Ông Hách bỏ cơm đứng dậy: - Dù sao thì thày mẹ vẫn phải có nhời với cậu Tú cho có trước có sau. Nguyễn Thị Cửu nói với bà Quỳnh: - Về bên nhà con rồi, con chỉ thương mẹ vất vả khuya sớm. Mấy năm trời ngược xuôi gánh gồng cùng mẹ, con không thể nào quên hình ảnh gầy mòn của mẹ lặn lội suốt chợ này đến chợ khác. - Mẹ rất thương con. Nhưng các con đã nói nhời với nhau như thế, mẹ chẳng thể níu kéo con ở lại. Thày mẹ chỉ một nhời với con rằng, sẽ coi con như con gái trong nhà. Dù con đi đâu thì vẫn về với thày mẹ. - Vâng, xin thày mẹ cứ coi con như đứa con gái của thày mẹ. Các em Bình, Ưu, Nho, Lâm, Nỉ đều không muốn chị Cửu ra đi. - Chị ơi, chúng em yêu quí chị lắm. Chị ở đây với chúng em. Kệ anh Học. Chúng em không muốn chị đi đâu cả. Các em của Nguyễn Thái Học ôm lấy chị Cửu, khóc thút thít. Cửu giang tay ôm lấy các em, không cầm được nước mắt. Các em sà vào lòng Cửu: - Không cho chị Cửu đi đâu. - Không cho… không cho đâu! Ông Hách ra bàn rít thuốc lào, nhả khói mù mịt. Bà Quỳnh ngồi thở dài. Bữa cơm nghẹn lại giữa chừng. Nguyễn Thái Học chạy ra sân, mắt ngước nhìn ngôi sao tận đâu đâu. Lòng anh bấn loạn, không hiểu nổi mình xử sự vậy đúng hay không đúng. Chỉ biết, mình đã nói đúng lương tâm, không hề lắt léo. Không khí gia đình nặng nề hẳn. Không ai muốn nói câu nào. Sợ nói điều gì cũng chạm tới tình cảm thiêng liêng trong gia đình. Bà Quỳnh thấy thương con giai vô hạn. Nó là người có chí lớn. Bà chưa biết con bà sẽ làm gì. Nhưng mỗi lần có bạn bè của Học về thăm nhà, ai cũng khen Học chững chạc, bạn bè tin cậy. Bà cũng luôn tin con. Tính tình cương trực, giàu lòng thương người. Bà hiểu tính con, muốn làm gì thì làm bằng được. Hồi năm ngoái, gặp bà mẹ Đội Cấn ngoài đồng, về nhà cứ xin mẹ mua cho bà ấy chiếc áo bông kẻo rét. Mẹ nào có tiếc. Bây giờ, hình như con giai bà đang làm việc gì hệ trọng lắm. Bằng linh cảm của người mẹ, bà nghĩ thế. Thương con, bà càng thương Cửu, chịu thương chịu khó, ăn nhịn để dành, lo lắng vun vén cho gia đình. Nhưng không thể giữ nó. Phải để cho nó định đoạt lấy đời nó. Đời con gái sinh nở có thì. Nó phải có cuộc sống hạnh phúc. Chính vì thế mà bà đồng ý để Cửu được tự do lựa chọn con đường lâu dài riêng của mình. Đêm đã khuya, bà Quỳnh vẫn phe phẩy chiếc quạt lá, xua muỗi cho Cửu ngủ. Nhưng bà biết Cửu đâu có ngủ được. Cửu vục dậy ôm lấy bà Quỳnh: - Mẹ ngủ đi, đừng lo cho con. - Chuyện đã vậy, mẹ mong con sớm tìm được nơi ấm êm, phù hợp với hoàn cảnh của con. Có gì đáng trách Học thì cứ trách mẹ! - Con không trách Học đâu. Con càng không dám trách mẹ. Con chỉ thương mẹ nhiều lo âu vất vả… * Nguyễn Thái Học ra tận cổng làng đón bạn. Tối nay theo lời hẹn, Phó Đức Chính cùng Hồ Văn Mịch đáp tàu chợ từ Hà Nội lên Bạch Hạc, rồi từ đó đi bộ về Thổ Tang thăm nhà Nguyễn Thái Học và bàn công việc gây dựng cơ sở Việt Nam Quốc Dân đảng tại Vĩnh Tường, Yên Lạc. Họ hẹn cả Vũ Văn Giản đang dạy học ở Bạch Lưu cùng về bàn bạc. Nhá nhem tối đã lâu mới thấy các chàng trai lục tục kéo đến. Bà Quỳnh cầm chiếc đèn dầu hỏa soi cho Học và mọi người vào nhà. Bà ý tứ bảo hai con giai Nho và Lâm ra cổng canh chừng. Câu đầu tiên bà nghe là tiếng của Mịch: - Mẹ ơi, chúng con lại về phiền mẹ đây. Bụng con đang biểu tình, mẹ còn khoai, luộc cho chúng con một nồi. - Chỉ nũng mẹ là giỏi! - Chính nói xen ngang. Tiếng bà Quỳnh vui vẻ: - Lấy đâu ra khoai với môn. Các anh về đây, nhà tôi chỉ có nước lã tiếp các anh thôi! Mấy tháng trời mới trông thấy mặt các anh, ai nỡ để các anh rỗng bụng? - Chúng con biết ngay mà! Mấy chàng trai cười tuế toá. Mịch lấy khăn lau mồ hôi, rồi nói: - Mẹ trách chúng con làm gì? Chỉ sợ sau này mẹ lại kêu sao chúng mày hay về thế! - Thế thì tôi cho người canh ngoài cổng, hễ thấy các anh về là đuổi liền cho biết mặt! Bà Quỳnh cười độ lượng rồi xăng xái vào bếp nổi lửa. Nguyễn Thái Học kéo Mịch, Chính và cả Giản, lên nhà trên, xin phép ông Hách xuống nhà ngang bàn chuyện. Nhà ông Hách có hai ngôi. Một nhà chính hướng nam lợp rạ, một nhà hướng đông lợp lá. Nguyễn Thái Học và bạn bè ngồi trong ngôi nhà lá yên tĩnh bàn bạc chuyện trò. Bốn cái đầu chụm lại. Đèn dầu hoả vặn nhỏ. Tiếng họ chỉ còn rì rầm. Cách vài mét là không thể nghe rõ. Học nói rành rọt: - Chúng ta phân công nhau, mỗi người đảm nhiệm một địa bàn, nhân rộng các chi bộ. Đối tượng bắt rễ là các ông giáo học, các ông bà có danh uy, có của cải ở địa phương, được nhiều người nghe theo và cả những người nông dân sẵn sàng xả thân vì cách mạng. Bây giờ tôi phân công như thế này: Anh Giản quen biết địa bàn Vĩnh Yên thì gây cơ sở ở Vĩnh Yên, chú ý địa bàn Vĩnh Tường, Yên Lạc. Anh Mịch thì lên Phú Thọ, chú ý địa bàn Lâm Thao, Thanh Thủy. Còn anh Chính thì phụ trách Sơn Tây. Anh có thể đi đò, qua sông là đến đất Sơn Tây rồi. Tôi đề nghị mỗi người phải nắm chắc dân tình, nắm chắc địa lý, biết nhiều ngõ ngách, đường làng lối xóm, sẵn sàng tiến thoái trong mọi tình thế. Còn tôi sẽ đi Yên Bái… Sau kỳ này chúng ta sẽ đi Bắc Giang gặp ông Nguyễn Khắc Nhu. Ông ấy có giấy nhắn sẽ đưa cả tổ chức Việt Nam Dân Quốc nhập vào tổ chức của chúng ta. - Thế thì thật đắc sách! Lực lượng chúng ta càng khoẻ lên! Phó Đức Chính hỏi: - Này anh Học, sang Sơn Tây đi thế nào nhỉ? Hôm qua đến đây bằng đường tàu cho nên chưa biết đường đất sang Sơn Tây ra sao. - Nhớ từ đây qua Cầu Hương, qua Đồng Phú, đến Dẫn Tự, qua vườn trầu ra Thùng Mạch, qua đê đến bến đò Ghềnh, qua đò Sông Cái là đến Sơn Tây. Nguyễn Thái Học vừa nói vừa vẽ sơ đồ đường đi lên tờ giấy, chỉ lối sang Sơn Tây cho Phó Đức Chính. Bàn bạc công việc chưa xong đã thấy bà Quỳnh bưng vào nồi cháo gà. Bà nói còn con gà mái đang ấp. Thấy các con vất vả đêm hôm thì bà mổ nấu cháo bổ dưỡng. Mặt đứa nào trông cũng hốc hác. Vì việc chính đáng bà không tiếc. Mấy chàng trai cùng ồ lên: - Trời ơi! Mẹ! Lời cảm ơn lúc này thật sáo rỗng và vô nghĩa. Ôi, Mẹ. Trời! Trong tối chắc bà Quỳnh không nhìn thấy mấy chàng trai lau nước mắt. Nửa đêm, mọi người rủ nhau vào ổ rơm nằm, nhưng khó lòng chợp mắt. Có đến mấy lần Học trở dậy rít thuốc lào sòng sọc. * Gần sáng, Nguyễn Thái Học trở dậy khẽ gọi mẹ: - Mẹ ơi, chúng con phải đi đây! - Sao vội thế con? Ở nhà thêm vài hôm được không? - Công việc của chúng con rất gấp. Cho con chào tất cả mọi người. Con phải đi kịp sáng mai làm việc. - Cầm lấy mấy đồng tiêu vặt con này. - Con cảm ơn mẹ. Bà Quỳnh quay sang Giản hỏi: - Thế cháu Giản chưa kịp qua nhà à? - Vâng, con dạy học trong tỉnh về nhà thường xuyên, lần này con vội phải đi ngay, chắc là lần sau con sẽ về qua nhà. - Chúng con đi mẹ nhé! Nguyễn Thái Học và ba chàng trai trẻ lẫn nhanh vào bóng tối trập trùng. Chương V MỘT SỰ LỰA CHỌN những ngọn lửa không mùa cháy không cần chờ đợi những ngọn cờ ủ gió bay cả lúc sa mưa Nguyễn Thái Học cùng Phó Đức Chính được Việt Nam Quốc Dân đảng phân công đi Bắc Giang gặp Việt Nam Dân Quốc do Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu để thương thảo về việc sáp nhập hai tổ chức. Hoạt động bí mật, không thể đi đông người. Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính cùng gánh sứ mạng chung, được mọi người rất tin tưởng, công việc hẳn sẽ trôi chảy. Chỉ có điều lãnh đạo Việt Nam Dân Quốc tuổi đã bốn sáu, liệu có thoải mái khi tiếp hai chàng trai trẻ mới ngoài hai mươi. Phó Đức Chính rất yên tâm bởi được cùng đi với Nguyễn Thái Học. Mọi tình huống chắc chắn có anh ứng phó. Hai người chuẩn bị hành trang nhẹ nhàng như người đi hội làng. Không quên mang theo thẻ căn cước mạo tên tuổi đã được đổi theo bí danh. Đi tàu sớm từ Hà Nội lên Bắc Giang rồi tìm về làng Song Khê. Tuy chưa đến đây lần nào, nhưng hai chàng trai trẻ đã phán đoán hướng đi khá chính xác. Câu chuyện dọc đường quanh quẩn vẫn quay trở về công việc. Phó Đức Chính chưa quên những ngày từ Xavanakhet tận bên Lào trở về kịp họp hội nghị thành lập đảng. Cũng mới chỉ có mấy tháng trời mà đã thấy lực lượng phát triển khá nhanh. Được tin ông Nguyễn Khắc Nhu muốn gặp gỡ đại diện Việt Nam Quốc Dân đảng bàn bạc về việc phối hợp hành động và phương hướng hoạt động, Phó Đức Chính và Nguyễn Thái Học rất mừng. Như vậy là cuộc đấu tranh này luôn có đồng minh, không hề đơn độc. Hai người đề cập tới các tình huống xảy ra trong cuộc gặp mặt này. Nếu thuận thì chúng ta phải tranh thủ thống nhất ngay các mặt tổ chức, kịp thời hoạt động, còn không thuận thì chúng ta phải kiên trì thuyết phục ông Nguyễn Khắc Nhu cùng phối hợp lâu dài. Nhưng cố gắng thống nhất lực lượng là nội dung cốt tử của cuộc thương thảo này. Chỉ có điều, hai anh em đều còn trẻ, phải từ tốn sao cho đúng với tư thế của bậc hậu sinh, phải tạo cho ông Nhu niềm tin. Phó Đức Chính bảo rằng, mọi việc bàn bạc đều cần anh Học chủ động, quyết sách như thế nào cũng ở anh, Chính chỉ nói khi nào mọi chuyện đã được hai vị đứng đầu hai tổ chức thuận ý. Mải chuyện, hai người đã tới đầu làng, thấy bốn cô gái đang cấy lúa ven đường, liền dừng lại hỏi thăm: - Phiền các cô, chỉ đường vào đình Song Khê giúp. - Gớm, hai anh đi đâu mà vội vàng thế? Xuống đây cấy thử với chúng em mấy đon mạ đã. - Thư sinh thế kia, cấy cho chua mạ người ta ra à? - Để chúng em cầm ô cho nào! - Các anh Hai ơi, có nghe hát quan họ thì dừng lại chúng em hát cho mà nghe. Chứ nhớ thương a lính tình tang là em luống chịu ơ người ơi… - Thôi, cấy đi, đừng trêu người ta, để người ta còn đi. Một cô bước hẳn lên bờ, giọng rất chi là thanh và đáo để: - Người ta buôn có bạn bán có phường Còn hai anh ngơ ngẩn trên đường làm chi? Biết là gặp những cô gái tài đối đáp không phải vừa. Nguyễn Thái Học liền vận dụng cái vốn đối đáp ít ỏi của mình học được ở quê: - Không biết buôn cũng chẳng biết bán gì. Đành bán cái ngơ ngẩn mấy cô có mua thì anh bán cho đây! - Tội gì mua ngẩn với ngơ Có cho thì lấy… về thờ gác bếp… để chơi Đối đáp thật đáo để. Mấy cô gái cười giòn tan. Cô gái đã lên bờ rửa chân tay, rồi bảo rằng cô sẽ dẫn Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính đến tận nơi. Mấy cô gái nói với theo: - Chị Giang hôm nay vớ bở nhé, vớ được một lúc cả hai chàng! - Chia bớt cho em một chàng nào! - Tham thế chị Giang ơi, ở lại cấy nốt mới được đi chứ! Không ai cấy hộ đâu đấy nhé! - Được rồi, lát nữa chị sẽ quay lại cấy tiếp, đừng có mà ghen tỵ! Dọc đường, Giang nói với hai anh: - Em cũng không biết cấy đâu. Bác Nguyễn Khắc Nhu phân công em giả đi cấy để đón hai anh đó. Còn mấy cô ấy là người làng này, vừa cấy vừa canh chừng cho cuộc gặp của hai anh với bác Nhu đó. - Chu đáo quá! Cám ơn em nhiều! - Thế các anh không còn câu nào khách sáo hơn để nói à? Hai chàng trẻ chỉ biết ậm ừ cho xong. Mới gặp nhau lần đầu mà Nguyễn Thái Học đã thấy ở người con gái này khả năng đối đáp thông minh, thẳng thắn, trong trẻo và nhiệt thành. Chắc chắn là người con gái được học hành tử tế. Không thể nói năng tuỳ tiện với cô gái này được. Nguyễn Thái Học vui vẻ nói: - Đất lề quê thói. Chúng tôi xa lạ đến đây. Có gì không nên không phải cứ chỉ dẫn cho. - Lại khách sáo nữa rồi! Người quan họ chúng em có câu: Liền anh liền chị đến chơi. Quý hồ là nghĩa, là nơi thân tình. Đã thân tình sao còn khách sáo? - Thế thì ta cùng hội cùng thuyền rồi! - Chỉ mong cùng hội cùng thuyền. Mong cây một cội. Mong duyên một nhà. - Hay quá, thế là từ đây một nhà đấy nhé! Nguyễn Thái Học thầm nghĩ: Tốt phúc nên đã gặp được cô gái này. * Trong cuộc đời một người có những biến đổi khó lường trước. Nguyễn Khắc Nhu cũng không hình dung nổi tại sao mình lại lắm chìm nổi phong ba đến vậy. Đeo đuổi học hành đến đỗ đầu Xứ, kỳ thi khảo hạch Bắc Ninh, Bắc Giang, tưởng rằng con đường học hành hanh thông, ai ngờ mấy lần thi Hương đều không đậu. Nguyễn Khắc Nhu không nản, đến năm 1908, xin vào học trường đào tạo tổng sư, khi ra trường được bổ về làng Thịnh Liệt thuộc Lạng Giang làm nghề dạy học. Cách Phồn Xương mươi cây số, những câu chuyện về Hoàng Hoa Thám và các nghĩa sĩ oanh liệt chống Pháp đã khắc vào tâm khảm người trí thức nông thôn Nguyễn Khắc Nhu. Dạy học chỉ là cái cớ để chờ thời cơ thực hiện chí lớn. Điều ấy đã có lần Nguyễn Khắc Nhu thổ lộ trong vần thơ cảm khái: Túi kinh luân anh sắp sẵn để bên mình Gặp thời, chưa dễ côn kình anh để thua ai Còn non còn nước còn dài… Nguyễn Khắc Nhu tự ví mình như côn kình, loài cá lớn vẫy vùng ngoài biển khơi. Ấy vậy mà đang phải tù túng trong vũng ao hồ. Cám cảnh cứ ngày ngày phải nhai nhải theo mấy bài giáo khoa trường công, không nhắc gì tới lịch sử, địa lý nước nhà. Phải tìm cách đưa những bài ca yêu nước của Đông Kinh Nghĩa Thục, những bài lịch sử và địa lý về non sông gấm vóc bao đời cho học trò hiểu về đất nước nguồn cội của mình. Những bài học thuộc lòng đã gieo vào lòng lứa học trò tình cảm sâu xa với tổ tiên giống nòi. Nguyễn Khắc Nhu đã bị viên thanh tra học chính khiển trách. Không chịu được cảnh chỉ biết vâng dạ, chỉ biết cung cúc nhắm mắt theo lối nhồi nhét nô dịch, Nguyễn Khắc Nhu từ chức dạy trường công, về dạy học cho trường dân lập Lạc Gián. Dạy chữ nho, dạy cả chữ quốc ngữ. Đây là nơi Nguyễn Khắc Nhu có điều kiện truyền bá những ý tưởng yêu nước, bởi học trò ở đây đã chớm tuổi thanh niên. Học trò thấy Nguyễn Khắc Nhu treo câu đối bên cạnh tấm bản đồ thế giới, thì hỏi thầy ý nghĩa như thế nào? Nguyễn Khắc Nhu giảng giải: Bích quải địa dư đồ, Tổ Quốc giang sơn hà xứ tại? Đường tôn nho giáo dục, Nam Cương tử đệ tiếp tông dư? Trên tấm bản đồ của quả địa cầu, đất nước mình ở đâu thì các trò phải hiểu, vì bản đồ người Pháp chỉ ghi Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française) thôi. Vậy nên, phải học để biết mà giành lấy đất nước, mới có thể làm cho đất nước có tên trên bản đồ, mới nối được dòng máu bất khuất của cha ông. Rồi Nguyễn Khắc Nhu ngâm nga khúc thơ đầy cảm khái: Trên vách treo bản đồ, Tổ quốc non sông là đâu nhỉ? Trong nhà tôn nho học, đất nước cháu con nối dòng chăng? Nơi căn phòng thường ngày ngồi giảng bài cho học trò, trên tấm vách, Nguyễn Khắc Nhu cũng treo câu đối, tự nhắc nhở mình về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với non sông đất nước: Chủng tộc giang sơn ngô đảng sự Thánh hiền hào kiệt thế gian sư Nòi giống non sông là việc của đảng. Thế gian là thầy. Muốn nên sự nghiệp phải dựa vào bậc thánh hiền hào kiệt trong thế gian. Học trò của thầy Nhu, khi thấu hiểu về chữ nghĩa thì cũng thấm nhuần tư tưởng yêu nước thương dân thầy truyền cho. Có lần, trò Nguyễn Văn Viên băn khoăn hỏi thày: - Thầy ơi, muốn việc lớn thì làm cách nào? - Hãy nuôi chí con ạ! - Con mong có ngày được đền đáp công lao của thầy. - Việc ấy thày mong con giữ trong tâm. Thày tin thế nào cũng có ngày thày trò mình làm được điều gì đó đền đáp cho đất nước. Thày Nhu đàm đạo với trò như những người bạn. Thày nghĩ rằng mình phải có trách nhiệm với thế hệ tương lai đứng ra phụng sự đất nước. Thày biết gia cảnh của từng học trò. Nguyễn Văn Viên là học trò nghèo. Rất nghèo, nhưng tấm lòng với những người cùng cảnh, tấm lòng với dân làng thì không nghèo. Thày trải điều tâm sự cùng học trò: - Viên này, sắp tới thày sẽ về quê, không còn được dạy học đối với các con nữa. Đấy cũng là do hoàn cảnh bó buộc. Thày phải về quê còn lo việc cho gia đình. Biết là xa các con cũng thấy tiếc nhớ. Chỉ mong con và các bạn con không quên những lời thày gửi gắm. Các con đều sắp đến tuổi trưởng thành. - Thày hãy tin ở chúng con. Tuy chẳng còn được học thày, nhưng mọi lời thầy giảng luôn ở trong tâm chúng con. - Chưa thể định liệu được hết những việc làm sắp tới. Việc thày về quê cũng chỉ là việc trước mắt. Còn lâu dài vẫn chưa thể ngồi yên được. - Con cũng đang lo, việc cha mẹ con có thể phải đi phu vào đồn điền đất đỏ trong Nam Kỳ. Các chức dịch của làng đã đánh tiếng như vậy. Cha mẹ con đi, con cũng phải đi… Hai thày trò chia tay nhau mà chưa biết bao giờ có thể được gặp lại. * Thời thế xoay vần, thôi nghề dạy học, Nguyễn Khắc Nhu về quê làm nghề bốc thuốc, kết hợp đông tây y chữa bệnh cho bà con dân làng. Bước chân về làng, lòng nao nao một niềm thương xót. Làng Song Khê của ông từ xa xưa nổi tiếng làng khoa bảng, làng của văn chương lễ nhạc. Trên cổng làng vẫn nguyên dòng chữ “Văn vật danh hương”, nhắc nhở mọi người làm sao xứng với các bậc tiền nhân. Vùng quê nghèo nhưng thơm thảo, bao lớp người chăm chỉ học hành đỗ đạt. Một làng nhỏ mà có cả người đỗ thám hoa, tiến sĩ, trạng nguyên. Họ Quách, họ Đào, họ Ninh ngày xưa đều có người đỗ đạt cao. Họ Đào có tới ba người đỗ tiến sĩ và trạng nguyên, được trọng dụng, làm nên sự nghiệp lớn phụng sự đất nước. Đức học cao dày. Nhưng làng còn tù đọng trong cảnh đói khổ tật bệnh. Lúc này Nguyễn Khắc Nhu mới thấy việc học hành có chút vốn liếng hiểu biết thu nhận được của thiên hạ cần thiết biết chừng nào. Thực ra, về làng giúp dân dẹp dịch tả, áp dụng những kiến thức mới về vệ sinh, ăn chín, uống sôi, dẹp bỏ thói quen tùy tiện trong đời sống, đào giếng thơi tạo nguồn nước sạch, rửa mặt bằng khăn sạch chống bệnh mắt hột cho dân làng… Tất cả những việc đó vừa giúp dân, vừa là cái cớ để Nguyễn Khắc Nhu thực hiện những điều nung nấu không nguôi, là phải lập được hội đoàn, tập hợp những ai có lòng yêu nước vào một tổ chức. Nguyễn Khắc Nhu nhớ lại, vào cái thời ông còn cắp sách đi học cụ Cử Đương, ông đã được cụ Cử trao cho một trọng trách là làm người liên lạc dẫn đường cho nhà chí sĩ Phan Bội Châu tới Phồn Xương gặp cụ Hoàng Hoa Thám. Chính đoạn đường này đây, được cụ Phan giác ngộ, đã khiến ông lựa chọn con đường rộng lớn hơn, con đường yêu nước làm cách mạng. Đấy cũng là sứ mệnh như đã được sắp đặt mà đất nước trao cho ông, dễ gì ông bỏ cuộc. Ông biết rằng ở trong đất Huế, mặc dầu cụ Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt giam lỏng, nhưng vẫn còn nhớ tới ông, một đứa trẻ làm liên lạc ngày nào. Cụ vẫn nặng lòng với non sông trong những tâm sự cô liêu. Những vần thơ buồn cô quạnh: "Trên bến Văn Lâu, ai ngồi ai câu, ai sầu ai thảm, ai nhớ thương ai…" Nhận được thư tay do người thân tín của cụ Phan đưa, gợi ý về việc cần lập ra một tổ chức để tiện cho hoạt động, Nguyễn Khắc Nhu đã bí mật vận động được một số người hăng hái tham gia. Tổ chức ấy phải được hoạt động hợp pháp. Ông đã cất công ra Hải Phòng, đến Hà Nội… ở đâu cũng có tiếng nói đồng tình. Đấy là việc rất cần lập hội Quốc dân Dục tài. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra chưa có câu trả lời xác đáng trong đầu Nguyễn Khắc Nhu. Từ khi lập hội Quốc dân Dục tài, nhằm đào tạo nhân tài, góp tài lực mở trường học, giúp dân nghèo, đã thu hút được rất nhiều người tham góp. Những thương gia, những điền chủ có lòng nhân ái đã đóng hàng trăm cổ phần, mỗi cổ phần tương đương hàng tạ gạo cho quĩ hội. Ấy vậy mà khi làm đơn gửi tới Thống sứ Bắc Kỳ thì họ không chấp nhận. Vậy thì những kẻ cai trị có thực sự chăm lo tới đời sống dân sinh không? Tất nhiên là không! Họ đang mải tìm mọi cách vơ vét của cải và bần cùng hóa đời sống của dân chúng. Vẫn là cách ngu dân dễ trị, chúng đã áp đặt từ khi đặt chân lên xứ sở này. Như thế là con đường đấu tranh bằng những cải cách xã hội sẽ không bao giờ đến đích như mong muốn. Phải đứng lên dùng vũ trang mà lật đổ cường quyền, điều ấy đã thôi thúc Nguyễn Khắc Nhu hành động. Phải tập hợp lực lượng. Phải lập chiến khu như Hoàng Hoa Thám đã từng làm. Kể từ khi chủ trương kêu gọi mọi người đứng vào hàng ngũ Việt Nam Dân Quốc, chỉ trong vòng một năm đã có hàng trăm người hưởng ứng. Nguyễn Khắc Nhu càng phấn chấn khi thấy những người tham gia tổ chức đều nhất tề đồng tâm nổi dậy chống chế độ thực dân hà khắc, bóp nghẹt đời sống, không cho dân mình ngóc đầu dậy. Đáng kể nhất là được mọi người tin tưởng. Buổi họp mặt đầu tiên mọi người đã tôn vinh Nguyễn Khắc Nhu là người đứng đầu Việt Nam Dân Quốc. Nguyễn Khắc Nhu tự kiểm điểm xem đã làm được những việc gì? Tổ chức đã kết nạp được một đội quân đông đảo, cả thanh nam và thanh nữ đều hăng hái nhập hội. Đã có cơ sở rèn dao kiếm, cơ sở chế tạo bom mìn, sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ. Nhưng Nguyễn Khắc Nhu cũng nhận thấy lực lượng còn quá mỏng. Lại bị bọn thực dân Pháp phát hiện một vài cơ sở chế tạo bom mìn. Chúng đã bắt bớ tra khảo nhiều người. Không ai khai, nhưng như thế là đã bị lộ. Nếu nổi dậy chắc chắn sẽ bị bọn thực dân Pháp đàn áp. Những lúc thật bình tâm, Nguyễn Khắc Nhu thấy cần phải củng cố cơ sở mạnh hơn nữa, cần phải thận trọng hơn nữa trong mọi quyết định. Cũng kịp thời hoãn lại một cuộc khởi phát manh động, khi chưa đủ điều kiện để nổi dậy ở Nhã Nam, Đáp Cầu, Phả Lại. Đấy là lần một số người trong Việt Nam Dân Quốc đã cùng với ông chủ trương mời Nam Đồng thư xã ở Hà Nội cùng phối hợp. Nhưng Nam Đồng thư xã đang bị thực dân Pháp tịch thu sách và bắt đóng cửa. Hơn nữa Nam Đồng thư xã hầu hết là những người cầm bút thư sinh, chủ trương hòa bình đấu tranh là chính, chỉ có Nguyễn Thái Học ủng hộ nhiệt tình đối với chủ trương của Việt Nam Dân Quốc. Cho nên nghe tin ở Hà Nội tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng ra đời, do Nguyễn Thái Học đứng đầu làm cho Nguyễn Khắc Nhu mừng lắm. Mừng vì con đường đấu tranh đã có người đồng minh. Mừng vì nhà cách mạng trẻ này rất nhiệt huyết. * Kể từ lúc nhận tin Nguyễn Thái Học cùng Phó Đức Chính sẽ lên Bắc Giang gặp gỡ với Nguyễn Khắc Nhu, làm cho ông bồn chồn không yên. Bồn chồn vì sự an toàn của khách, liệu đi đường có gì bất trắc xảy ra. Bồn chồn còn vì lần đầu tiếp kiến với lớp người trẻ tuổi, liệu có đem lại kết quả, hay xôi hỏng bỏng không? Nguyễn Khắc Nhu cho bố trí địa điểm gặp nhau ở sau đình làng Song Khê. Một vị trí rất thích hợp với việc tiến thoái. Chỉ cần lẫn vào trong đình thì chả khác gì mọi người dự lễ. Hai chàng trẻ áo the khăn xếp như mọi du nhân đến thăm đình. Liên lạc viên của Nguyễn Khắc Nhu nhận rõ mặt Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính mới đưa vào gặp Nguyễn Khắc Nhu. Bỏ qua mọi nghi thức xã giao, Nguyễn Khắc Nhu niềm nở: - Hai chú đi đường có gì trở ngại không? - Cảm ơn… chúng cháu không gặp trở ngại gì. Chỉ có điều khi vào đây, cô gái dẫn đường rất đáo để, vặn vẹo kinh quá, có câu không trả lời nổi. - Có câu gì không trả lời nổi? - Cô ấy hỏi, tại sao tổ chức Việt Nam Quốc Dân đảng nơi các anh lại phân biệt, không kết nạp phụ nữ? Thế có phải là mắc tội coi thường phụ nữ không? - Vậy các chú nói thế nào? - Anh Học trả lời, không dám coi thường phụ nữ, nhưng do chưa có được thời cơ kết nạp phụ nữ. - Thế là cô ấy nói luôn, thế thì bây giờ có thời cơ đấy, liệu các anh có dám kết nạp phụ nữ không? - Vâng, chúng em phải nhượng bộ cô ấy hoàn toàn. Nguyễn Khắc Nhu cười ha hả: - Đấy, mới đến đất này mà các chú đã bị phụ nữ bắt nạt rồi. Ghê không? Các chú có biết tên người phụ nữ ấy là gì không? - Là Giang! - Đúng rồi! Nguyễn Thị Giang, em gái Nguyễn Thị Bắc, dân Thọ Xương, Phủ Lạng Thương đó. Còn cô em nữa là Nguyễn Thị Tình. Cả mấy chị em đều là bậc nữ lưu nổi tiếng cả vùng đất này về học giỏi, thông minh, thạo võ nghệ. - Thảo nào, dân của đất Yên Thế, danh bất hư truyền. - Bây giờ các chú có yêu cầu gì cứ nói, Nhu này xin nghe trước đã, rồi đến phần quan điểm của Nhu sẽ nói sau. Nhưng để tiện xưng hô, các chú cứ gọi ta là anh xưng em cho tiện. - Vâng, về tuổi tác, bác là bậc cha chú, nhưng bác đã cho phép, chúng em xin được gọi bác và xưng em cho tiện câu chuyện. - Được rồi, được rồi, cứ như thế nhé! Trong câu chuyện hôm nay, có thêm mấy người tâm huyết trong Việt Nam Dân Quốc cùng dự, cùng nghe, cùng thảo luận. Có gì cùng quyết định. Nguyễn Khắc Nhu cần mọi người thông suốt ý kiến, thông suốt hành động. Cuộc bàn bạc của những người đại diện Việt Nam Quốc Dân đảng và những người đại diện của Việt Nam Dân Quốc đến chiều thì xong. Ngoài ý kiến của Nguyễn Khắc Nhu, những ý kiến của các đại biểu khác đưa ra cũng thật là tâm đầu ý hợp. Cùng mục đích chống thực dân Pháp và đám quan lại ươn hèn, tham lam. Cùng chủ trương làm cách mạng giải phóng đất nước, giải phóng con người, mang lại Độc lập, Dân chủ và Tự do, với tình thương đồng loại, tình thương dân tộc được đề cao tối thượng. Tôn chỉ mục đích của Việt Nam Quốc Dân đảng rất phù hợp với ý chí và nguyện vọng của mọi người. Việc hợp nhất hai tổ chức, lấy tên chung là Việt Nam Quốc Dân đảng nhanh chóng được mọi người tán thành. Nguyễn Khắc Nhu rất vui vì ý tưởng của Nguyễn Thái Học rất trúng ý tưởng của ông. Giao phó sứ mệnh của cả một tổ chức cho chàng trai này là đáng tin cậy. Từ nay, lực lượng cách mạng được mở rộng, có cơ sở tới tận xóm làng, nơi đó có thêm những điền chủ, những nông dân hăng hái tham gia cách mạng. Mặt khác, những người dân yêu nước vùng Bắc Giang không còn phải chiến đấu đơn độc, vị trí hoạt động không còn bó hẹp trong một tỉnh, một vùng, mà tầm hoạt động đã lan rộng ra khắp đất bắc, khắp cả nước. Mọi người thống nhất chủ trương phải hướng cuộc cách mạng đi theo con đường đấu tranh vũ trang giành chính quyền, lập nên chính thể cộng hòa tiến bộ. Chống thực dân và chống chế độ phong kiến suy tàn. Có như vậy dân ta mới có Độc lập, Tự do. Để tiến hành công cuộc cách mạng chung, Nguyễn Thái Học phải là người đứng đầu tổ chức đảng. Vì anh còn trẻ, hăng hái, thông thái, dám gánh vác trách nhiệm và đặc biệt là có tư chất của người thủ lĩnh. Nguyễn Khắc Nhu đảm nhận vai trò Trưởng Ban lập pháp của đảng. Nguyễn Thái Học trình bày cụ thể về kế hoạch hoạt động sắp tới của Việt Nam Quốc Dân đảng là sẽ tích cực hoạt động gây thanh thế, nhưng cần hết sức giữ bí mật. Sẽ tích cực vận động mọi thành phần xã hội tham gia tổ chức, miễn là có lòng yêu nước và dám xả thân vì dân, vì cách mạng. Lực lượng ấy có thể phát triển cả vào hàng ngũ binh lính người Việt Nam đang trong hàng ngũ quân đội Pháp. Họ bắt buộc phải đi lính, nhưng tình cảm vẫn hướng về nhân dân, vẫn là dòng máu dân Việt. Họ được Pháp trang bị vũ khí, có thể lấy chính vũ khí ấy mà nhằm vào bọn thực dân, bọn bán nước cầu vinh. Cũng phải chú ý sản xuất súng ống, bom mìn, đạn dược, chuẩn bị cho cuộc nổi dậy khi cần thiết. Phải giữ gìn an toàn. Và đặc biệt phải tuân thủ kỷ luật đảng. Ai phản bội sẽ bị xử tử... Nguyễn Khắc Nhu nhấn mạnh thêm: - Đã trong tổ chức cần giữ vững kỷ cương. Tôi là người luôn kề vai sát cánh bên các bạn trẻ, cùng chiến đấu. Sẵn sàng đảm nhiệm tốt vai trò cố vấn cho tổ chức, cố vấn quân sự cho Nguyễn Thái Học. - Tôi rất cảm động trước những lời tâm huyết bác Nhu vừa nói. Phó Đức Chính ngồi nghe mọi người đàm đạo, không hề bỏ sót chi tiết nào. Anh rất vui khi thấy mọi người bình đẳng, thẳng thắn, không phân biệt anh là người trẻ nhất. Thỉnh thoảng Nguyễn Khắc Nhu lại nhắc: Ý kiến chú Chính thế nào? Để mọi người nói xong, Phó Đức Chính mới phát biểu: - Vâng, những điều quan trọng nhất, bác Nhu và anh Học đã đề cập. Tôi chỉ góp thêm ý kiến về lĩnh vực tôi được đảm nhiệm. Đó là vấn đề tổ chức. Điều này liên quan đến từng con người. Chúng ta đang cần mở rộng lực lượng. Chúng ta sẽ kết nạp tất cả những ai có nhiệt huyết, một lòng một dạ với cách mạng. Phải mở được các lớp huấn luyện bí mật về bắn súng, về võ thuật. Phát triển cơ sở càng nhanh càng tốt. Mặt khác, phải thật nghiêm khắc với những người làm trái với tôn chỉ mục đích của đảng. Phải phổ biến những quy ước, những quy định của đảng đến mọi đảng viên. Ai cũng phải được thấm nhuần lời thề. Ai phản bội phải trừng trị đích đáng, để làm gương. Bây giờ thống nhất hai tổ chức làm một, ảnh hưởng và uy tín của đảng sẽ rất lớn, nhưng cũng không tránh được những phức tạp. Đã là một thì không chia rẽ bè phái. Phải đặt nhiệm vụ của đảng là tối thượng. Phải bí mật hành động. Phải có phương án và phương sách đối phó với những tình huống bất trắc xảy ra. Phải nắm vững động thái của thực dân và tay sai, để kịp thời ứng phó. Chúng ta sẽ một lòng một dạ bên nhau chiến đấu. - Thật là thấu lý! Phó Đức Chính nói với giọng điệu sôi nổi của tuổi hai mươi. Rõ ràng anh đã thổ lộ được những điều tâm huyết tận sâu thẳm lòng mình. Nội dung thế là đầy đủ. Không ai phát biểu gì thêm. Không khí vừa chân tình, vừa trang trọng. Thủ tục hợp nhất hai tổ chức diễn ra nhanh chóng. Bàn thờ Tổ quốc được bày ra. Trên cao là lá cờ nửa đỏ nửa vàng. Một đỉnh đồng khói hương nghi ngút như báo hiệu với tổ tông giờ khắc thiêng liêng. Tất cả những người có mặt đứng trang nghiêm tuyên thệ: Vì Dân tộc, vì Tổ quốc, một lòng một dạ trung thành, không bao giờ phản bội. Xin thề! Xin thề! * Nguyễn Khắc Nhu mời hai chàng trai về nghỉ ở nhà mình. Căn nhà cũ kỹ bằng tre, mái lợp lá đã bạc thếch vì mưa nắng. Gian bốc thuốc đơn sơ, sực nức mùi thuốc bắc thuốc nam. Đáng kể là gian giữa thờ tổ tiên, nổi bật câu đối: “Tuế hữu tứ thời xuân tại thủ. Nhân ư bách hạnh hiếu vi tiên”, nét chữ khỏe chắc đầy khí lực. Câu đối nhắc nhở, năm bốn mùa mở đầu bằng mùa xuân, người trăm tính trước hết là hiếu thảo. Nhìn ra ngoài vườn có cây mít to choán một góc sân. Bên ngoài là giếng nước, bốn mùa trong mát. Đặc biệt là cây quỳnh cành dao được chủ nhà đặt dưới bóng cây mít, gợi một câu chuyện cổ liêu trai. Nguyễn Khắc Nhu bảo rằng, nhà tuy thanh bần, nhưng phải tạo được nếp sống tao nhã. Một chiếc chõng tre được đặt trong khoảng sân lát gạch vuông, trước bồn hoa mộc mạc. Một bàn trà, với bộ ấm chén đất nung thẫm màu men Hải Dương cổ được bày lên chõng. Đêm nay là đêm của ba người hiệp sĩ lãng tử vừa ngắm trăng, ngắm hoa và thưởng trà. Ba cây nến, đặt trên chiếc khay cũng bằng đất nung, hất ánh sáng lên từng đóa hoa quỳnh đang sắp nở. Gió nhè nhẹ vừa đủ cho những ngọn nến lung linh lay động. Vầng ánh trăng xối xuống hiên nhà, gieo ánh bàng bạc dịu mát khắp vườn, làm cho cảnh vật thêm huyền ảo. Ba người, một già hai trẻ, sau một ngày làm việc hết sức nhiệt thành, giờ cùng nhau ngắm hoa quỳnh nở. Nguyễn Khắc Nhu nhắc tới câu chuyện từ thời trí tưởng tượng của con người còn nguyên sơ, nhưng đầy thơ mộng. Thuở ấy trên thượng giới đặc biệt cấm kỵ trai gái yêu đương. Thế mà đôi tiên đồng ngọc nữ lại lén lút yêu nhau. Bị quở phạt, hai trẻ đã trốn về hạ giới. Ngọc Hoàng giận dữ lắm, liền sai sứ thần truy đuổi đến cùng, xuống hạ giới tìm bắt hai trẻ xử tội, biến thành hai thứ cây hoang dại. Đó là cây quỳnh cây dao. Trần gian thương cảm mối tình dang dở, đã lấy hai cây trồng cạnh nhau, như thể tình yêu không thể chia lìa. Nhâm nhi xong chén trà, Nguyễn Khắc Nhu nói: - Trí tưởng tượng của các cụ xưa cũng lãng mạn đáo để. Một đằng, cây chỉ có lá, lá là thân. Một đằng, cây chỉ có thân, thân là lá. Trồng chung một gốc thành cây quỳnh cành dao. Thật hay! Phó Đức Chính thú vị reo lên: - Thế thì, bác Nhu và anh Học phải có thơ đi. Cảnh tượng này thật là hữu tình. Trời khéo chiều lòng ba người chúng ta. Như mọi ngày thì Nguyễn Thái Học đã tìm cách trốn vào đâu đó làm một giấc ngủ. Nhưng cảnh tượng đêm nay thật kỳ thú cộng với sự ý hợp tâm đầu của những người bạn vong niên cùng chí hướng, nên Học tán thành ngay. Nguyễn Thái Học đề xuất: - Đúng! Vậy đề nghị bác Nhu khởi xướng, để đánh dấu sự hội ngộ trong một đêm như mộng. Trầm ngâm một lúc như để ngấm hết những cảm xúc đồng điệu, cùng với người, cùng với trăng, cùng với muôn vật. Nguyễn Khắc Nhu phấn chấn: - Sẵn sàng! Nguyễn Khắc Nhu vừa ứng tác vừa ngâm: Cảnh vật đêm nay thật hữu tình Nặng lòng ưu ái khó làm thinh Người ngắm đài hoa cùng giăng sáng Nở giữa thanh tao mấy đóa quỳnh Ai thấu lòng nhau thì xích lại Tâm sự nào ai kể với mình Cành dao có bạn không lẻ bạn Một mối lương duyên thỏa bình sinh Mọi người lặng đi trong một không gian yên tĩnh. Có thể nghe rõ những tiếng côn trùng ri rỉ trong vườn cây, rì rào trên mặt đất. Nguyễn Thái Học có mấy lời thưa trước rằng, anh thích thơ, rất thích thơ. Thơ làm cho tâm hồn thư thái. Những lúc vui buồn, thơ là niềm tâm sự. Nhưng anh không phải là nhà thơ. Anh thích thơ như mọi người dân Việt yêu thích thơ. Trước không gian đầy vẻ thánh thiện, đêm nay, không thể không có mấy vần nôm na, rồi anh chậm rãi đọc: Cây quỳnh chung gốc cành dao Có vầng trăng sáng trên cao tỏ tường Bông hoa lẳng lặng tỏa hương Tri âm càng thấy vấn vương trong lòng… Cảnh vật như lắng lại, cứ để cho những câu thơ dư vang. Vừa lúc ấy, mấy đóa hoa quỳnh rung động nhẹ, rồi cứ từ từ mở cánh, như có một chú bé tí hon nấp trong đài hoa đẩy cho từng cánh hoa nõn nà vươn ra ánh sáng. Trăng vừa chênh chếch ngọn cau. Những ngọn nến hao dần. Cuộc đàm đạo quên cả khuya. Mãi đến lúc nghe gà gáy rộn mọi người mới bảo nhau đi nằm. Chuông đồng hồ điểm mười hai tiếng. Dư vị của một ngày với bao điều suôn sẻ ngọt ngào mãi, khiến hai chàng lữ khách thao thức. Phó Đức Chính nằm bên Nguyễn Thái Học mông lung nghĩ đến những ngày sắp tới. Chỉ mới dăm ba câu chuyện. Bỗng Chính quay sang Nguyễn Thái Học định nói thêm vài điều, nhưng thấy im ắng, đoán là giấc ngủ đã kéo đến, nên Chính không nói thêm gì nữa. Chính chìm vào giấc ngủ lúc nào không biết. Chương VI MỘT CHẶNG ĐƯỜNG MẤY CHẶNG ĐỜI con đường gắn với dòng sông phù sa gắn với cánh đồng phì nhiêu đường đời nắng lắm mưa nhiều đi sao cho hết thương yêu đắp bồi Trước khi chợp mắt, Phó Đức Chính kể với Nguyễn Thái Học, không hiểu làm sao thấy nóng ruột quá, ở nhà cha mẹ “đánh giây thép” nói cần về ngay để lo việc gia đình. Chẳng hiểu việc gì? Chưa bao giờ cha mẹ lại báo tin như vậy. Vả lại, cũng nhớ nhà, lâu không được nhìn thấy cha mẹ. Nguyễn Thái Học bảo, rất nên thế, cũng phải về qua nhà để các cụ khỏi mong, lỡ có việc gì cần, lâu không thấy con cái cũng sẽ không an tâm. Yên lặng một lúc, rồi hai chàng trẻ thi nhau ngáy, không ai chịu kém cạnh ai! Riêng Nguyễn Khắc Nhu thấy vững dạ và thật sự thư thái. Ông thấy hai chàng trai trẻ đúng là trang nam nhi, học hành hiểu biết, thật đáng tin cậy. Ông nghiệm ra rằng, tuổi trẻ thời nào cũng có những người giàu chí khí. Thời nào tuổi trẻ cũng có những người ưu tú. Ông quan sát hành vi của Nguyễn Thái Học, thấy rõ tư chất thông minh, lễ độ và chân thật. Anh ta không tỏ ra hợm hĩnh tranh khôn. Cái gì không biết thì hỏi đến nơi đến chốn. Tuổi trẻ đã sớm chững chạc. Mới hai lăm hăm sáu tuổi đời mà đã dám đảm nhiệm việc trọng đại. Lại là người có tâm hồn lãng mạn. Tư chất ấy chính là tư chất của người cách mạng. Còn Phó Đức Chính chín chắn đúng mực, từ tốn và cầu thị. Hai mươi tuổi đời mà đã lo tới sự nghiệp lớn đất nước. Nếu là kẻ bảo mạng, với bằng kỹ sư công chính, không cần phải lo gì đời sống vật chất, cứ việc cúc cung tận tụy với chế độ bảo hộ thì đã đầy đủ. Không có điều gì phải lo lắng cho miếng cơm manh áo. Vậy mà sẵn sàng sả thân, không ngại ngần hy sinh, dám xông pha làm những việc nguy hiểm đến tính mạng. Thật đáng là tấm gương sáng láng cho lớp người trẻ tuổi noi theo. Nguyễn Khắc Nhu trở dậy thắp nén hương lên bàn thờ tổ tiên, lầm rầm khấn: “Vì non vì nước, xin liệt tổ liệt tông phù hộ độ trì, cho con được kết tình thân với hai chàng trẻ này, cùng lo phụng sự cho đất nước”. Cũng phải chín giờ sáng hôm sau mọi người mới chia tay nhau. Nguyễn Thái Học ở lại Bắc Giang làm tiếp nhiệm vụ tới các cơ sở, nắm thực trạng tình hình cùng với Nguyễn Khắc Nhu. Phó Đức Chính chào mọi người rồi về quê, còn dặn với Nguyễn Thái Học, xong việc trên Bắc Giang, rẽ về nhà Chính, rồi hẵng về Hà Nội. * Dán bộ ria mép giả, đeo chiếc kính râm, mặc chiếc áo khuy ngang nút vải với chiếc quần rộng ống màu nâu đen, Nguyễn Thái Học đã thành một người khác, không còn vẻ gì của ông thầy đồ áo the khăn xếp hôm trước. Anh hoàn toàn giống một người Tàu làm nghề buôn bán thuốc rong. Anh cùng Nguyễn Khắc Nhu tới vùng Phồn Xương, nơi chiến khu xưa của cụ Đề Thám. Trong vai đi mua thuốc bắc hành nghề, Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học toòng teng đôi bồ lên đường. Trông Nguyễn Thái Học quẩy đôi bồ theo Nguyễn Khắc Nhu chẳng khác gì đồ đệ theo hầu thầy. Hai người cuốc bộ tắt theo các lối mòn qua những khu đồi bát úp để đến khu Chợ Gò, Phồn Xương, căn cứ của “Hùm thiêng Yên Thế”. Nơi Hoàng Hoa Thám cùng với nghĩa quân đã trụ lại suốt 30 năm chống thực dân Pháp. Dấu tích “quân doanh”, thành đất trong ngoài và các hệ thống hầm hào phòng thủ của nghĩa quân hiện lên trước mắt Nguyễn Thái Học chẳng khác gì trận đồ bát quái. Nguyễn Khắc Nhu nói rằng, đây có thể lên khu Rừng Già, nổi tiếng ma thiêng nước độc, thế đất hiểm yếu, tiện lợi cho nghĩa quân vừa công vừa thủ. Quân Pháp khó tới được đất này. Không những thế, chúng đã hai lần bị phục binh thiệt hại nặng nề trong trận đánh ở Hố Chuối tháng 12 năm 1890 và ở Đồng Hom tháng 2 năm 1892. Nguyễn Thái Học ướm chân mình lên bậc Đền Thề, hình dung những bước chân của Đề Thám đã từng đặt lên đây, bóng dáng oai phong đã từng in lên mỗi bức tường, giọng quân lệnh quả quyết đã từng vang lên ở đây, mà thấy lòng rưng rưng một niềm xúc động. Cảnh vật còn tất cả mà người xưa oanh liệt đã ở kiếp thiên cổ. Đấy là cảm giác thiêng liêng thường đến với Nguyễn Thái Học mỗi khi anh bước tới những vùng đất có dấu ấn lịch sử chống ngoại xâm của các bậc tiên liệt. Anh như thấy hồn thiêng của những người vì dân vì nước bay lởn vởn trên đầu, như nhắc anh phải làm điều gì cho xứng đáng. Hồn thiêng của Yên Thế còn vương vất trên từng gốc cây ngọn cỏ. Quên điều đó sẽ là kẻ vô ơn bạc phúc. Hai người vòng ra phía trước khu đồn lũy, nơi xưa mỗi khi phòng vệ ngăn địch tấn công, những mũi tên nghĩa quân có thể bắn ra như mưa. Rồi những ụ đặt pháo, nơi hầm chông cạm bẫy, rồi những nơi rèn dao kiếm, dáo mác… đang như sống động trước lời kể của Nguyễn Khắc Nhu. Nguyễn Thái Học đi sau, lặng lẽ ngắm dáng của người từng là nghĩa sĩ cuối cùng của Yên Thế. Anh thầm nghĩ, nếu Nguyễn Khắc Nhu là người an phận, chỉ cần với công việc dạy học và chữa bệnh cho dân đã đủ nhàn nhã, đáng kính trọng lắm rồi. Nhưng ông không chịu yên trước cảnh nước mất nhà tan. Ngày đêm nung nấu ý chí đấu tranh với quân cướp nước. Không quản ngại lặn lội khắp nơi, tổ chức lực lượng, tập hợp thành đội ngũ. Vùng đất Bắc Giang này, ông thuộc từng lối ngõ. Đi đâu cũng thấy ông có cơ sở tin cậy. Đi đâu cũng có người thân tín. Đối với vai trò một người đứng đầu hội kín ở một địa phương thì điều ấy cần thiết biết chừng nào. Nguyễn Khắc Nhu dẫn Nguyễn Thái Học đến một ngôi chùa, cũng là cơ sở của Hội Việt Nam Dân Quốc. Ngôi chùa nằm trên một ngọn đồi thoai thoải dốc. Bên ngoài có hàng rào duối xanh ngắt được xén tỉa bằng bặn. Vườn chùa có những cây mít cây nhãn lâu năm bóng tỏa rợp, ánh nắng từng tia chiếu loang lổ trên mặt đất. Những gốc mít to bạnh, quả sai xù xì ôm lấy thân cây. Sân chùa trồng hoa ngọc lan, hương hoa phảng phất trong gió. Lối vào chùa sạch mát, đầy bóng râm. Chủ nhà niềm nở chạy ra đón khách: - Trời, bác Nhu. Lâu lắm bác mới lên chơi. Cả anh nữa! - Đây là anh Nguyễn Thái Học, người bạn mới của chúng ta. - Chắc có đến mấy năm bác Nhu mới trở lại vùng này? - Cũng từ ngày thôi dạy học ở Thịnh Liệt đấy. Bà con mình ở vùng này vẫn bình an vô sự chứ? - Chưa bình an đâu bác ơi! Phu phen tạp dịch thuế má trăm thứ đổ lên đầu. Dân không mở mày mở mặt nổi vì bọn cường hào ác bá, trộm cướp khắp nơi hoành hành. Bác xem, dân ở đây vẫn truyền tụng câu: Nhờ “ơn” cái lũ quan tây Nó ban sưu thuế… nhừ thây nát nhà! Nhờ “ơn” cái đám quan ta Nó cho roi vọt… gọi là thưởng dân! Hờn căm lũ giặc muôn phần… Thế đấy! Cảnh đói nghèo xơ xác ở đâu chẳng gặp? Đúng là bộ máy kìm kẹp của người Pháp áp đặt lên vùng này rất dã man kể từ ngày nghĩa quân Đề Thám thất bại. Chúng cho triệt hạ tất cả các làng mạc xóm thôn, đề phòng dân chúng nổi dậy và dễ bề kiểm soát. Nhưng người dân thì vẫn nung nấu chí căm hờn. Dân vẫn nuôi trong mình mối hận mất nước, bao cảnh gông cùm tù đày, chết chóc, làm sao mà quên được. Dân làng vẫn mong ngày đền đáp với non sông. Nguyễn Khắc Nhu nói: - Vậy là tốt lắm, ngày ấy sẽ không xa đâu. Thế dạo này có kiếm được ít thuốc nam nào không? - May đấy, vừa phơi sấy đóng gói được một ít thuốc kiếm trong Rừng Già. Bác đến kịp thời quá. Em đóng cho bác nhé! - Tốt quá! Chú đóng vào bồ cho tôi. Nguyễn Khắc Nhu hỏi thăm các môn võ bí kíp cổ truyền có thường xuyên duy trì luyện tập không? Chủ nhà sốt sắng: - Vẫn phải bí mật luyện tập chứ bác. Đấy là linh võ, môn võ đặc dị, đặc chủng không phải ai cũng biết. Chỉ chờ khi nào có minh chủ minh quân, chúng tôi mới mang ra phụng sự. Môn võ cổ truyền khổ công nhất là môn võ sáo, một trong những môn võ được truyền giữ từ lâu đời. - Quả thật, lần đầu tôi được biết tên môn võ đặc biệt này. Nguyễn Khắc Nhu nói: - Anh Nguyễn Thái Học là người của chúng ta. Hội Việt Nam Dân Quốc của ta đã nhập với Việt Nam Quốc Dân đảng làm một. Anh Học đây là Chủ tịch Tổng bộ đảng. Hôm nay cùng tôi tới vùng Yên Thế, cũng là để thị sát tình hình. Chúng ta là anh em cùng hội cùng thuyền. Tôi rất muốn chú biểu diễn môn võ sáo, giới thiệu cho anh Học cùng thưởng thức. - Hân hạnh! Hân hạnh lắm! Chủ nhà vào trong chùa, mở hòm lấy ra cây sáo sắt dài bằng tầm cây trường kiếm, đầu sáo buộc tua màu giống đuôi chiếc đao. Cây sáo có biệt danh là “ngọc tiêu diệu khúc, thiết địch thần phong” được nghĩa quân Yên Thế sử dụng làm ám hiệu bằng âm thanh. Tùy giai điệu của khúc nhạc mà các nghĩa sĩ biết cảnh yên hàn hay có động. Tiếng sáo ấy trầm đục hay bay bổng, dồn dập hay khoan thai, hiền lành hay ma mị, để mọi người biết cách xử lý các tình huống trong chiến trận. Người thổi sáo phải thật khỏe mạnh, trường hơi, vượng khí, linh hoạt, luôn theo sát bên thủ lĩnh để truyền những mệnh lệnh lên bầu trời. Không ít lần quân Pháp điêu đứng vì tiếng sáo mang mệnh lệnh xuất thần ấy. Khi giáp địch cây sáo bỗng chốc trở thành cây côn lợi hại, tả xung hữu đột biến hóa khôn lường trong tay võ sĩ. Lúc như trường kiếm, lúc như đoản đao, lúc như côn túc. Sau khi cung kính làm lễ trình tổ, chủ nhà đã trổ tài môn võ sáo cho Nguyễn Khắc Nhu và Nguyễn Thái Học tận mắt trông thấy. Bỗng như mát lẹm sau gáy khi nghe tiếng sáo vun vút rít lên từ ống sáo theo động tác điều tiết điêu luyện của võ sĩ. Tiếng sáo phát ra do lượng gió hút vào các lỗ sáo, lúc nhẹ như gió thoảng mây bay, lúc dồn dập như vó ngựa phi trên đồng nội, lúc rộn ràng như khúc khải ca. Khi công khi thủ. Cốt cách lãng tử gắn kết với chí khí võ đạo làm cho người múa sáo như thăng hoa. Bài võ sáo có tên “Thiết địch Phồn Xương” vừa thơ mộng khao khát tự do vừa mã thượng khoáng đạt như thần linh thần kỳ mách bảo. “Thiết địch Phồn Xương” mông lung như màn sương lan tỏa trên mặt nước, hiện hữu như trời đất phóng túng, trong các thế, các chiêu uyển chuyển: xà hình nhập trận, xà hình thoát bộ, bạch xà quấn thân, đồng tước song phi, long hổ nhập hội, lão hầu du sơn, tả hữu xa luân, tam hoa cái đỉnh… loang loáng như trăng lướt trên sóng. Chủ nhà vừa biểu diễn vừa giải thích về các thế tấn, các thuật đặc dị diệu khúc và những chiêu thức thần pháp. Cây sáo sắt khi tay phải, khi chuyển sang tay trái trong thế phản công như gió bão. Thu vào như hoa, đâm ra như vệt chớp. Trước mặt võ sĩ như có kỳ phùng địch thủ đang chống trả không khoan nhượng. “Thiết địch Phồn Xương” còn như lời tụng ca thiên nhiên hào hoa phóng túng, khi trầm như tiếng tù và, khi vút cao như chim chóc, trong bộ hành tiến tiêu dao uyển chuyển uy lực, trong khi chân còn giữ nguyên thế tấn vững chãi. Dường như tâm hồn võ sĩ đã hòa quyện với trăng sao trong điệu múa sáo tuyệt chiêu, tuyệt mĩ. Nguyễn Thái Học thốt kêu lên: diệu nghệ, diệu nghệ! Với dáng vẻ khoan thai đĩnh độ, võ sĩ dừng lại vái chào người xem. Con người thoát khỏi trạng thái nhập đồng, trở về tư thế thung dung thuần phác. Nguyễn Thái Học hoàn toàn bất ngờ và vô cùng thích thú trước bài võ sáo mà trước đây anh chưa từng biết. Anh ôn tồn hỏi võ sĩ: - Võ sĩ học môn võ bí truyền này bao lâu? - Phải khổ luyện từ lúc bốn năm tuổi. Thầy là một đại võ sư sống ngót trăm năm, giờ không còn nữa. Không phải ai cũng học được môn võ này đâu. Phải có sức khỏe. Phải kiên trì, tỉ mỉ. Phải sáng dạ và có dũng khí. Ngoài mười tám môn võ thuật thông thường, thì đây là một trong bốn môn võ đặc dị được cụ Hoàng Hoa Thám đắc dụng. Có thể dùng khi đánh giáp lá cà, xuất kỳ bất ý, tiêu hao sinh lực quân địch trong những tình huống giáp mặt. Nguyễn Thái Học cảm ơn người võ sĩ, hẹn có ngày tái ngộ. Cũng không thể ngờ đó là thiên duyên đã gắn bó hai số phận với nhau ở cuối chặng đường cách mạng. Người võ sĩ ấy sau này trở thành vệ sĩ của Nguyễn Thái Học, có tên là Sư Trạch. * Tiếng súng nổ ở phía cuối thôn làm mọi người nhốn nháo. Chưa biết có chuyện gì xảy ra. Người chạy tán loạn. Nhiều người thở không ra hơi. Đám người chạy thục mạng, mặt mày tái xanh tái xám. Một toán chừng ngót chục tên vừa cưỡi ngựa phi nước đại vừa bắn súng về phía sau. Nguyễn Khắc Nhu kéo Nguyễn Thái Học đứng nép vào một chỗ khuất, tránh kẻo tai vạ, chẳng phải đầu cũng dính tai. Khi toán người cưỡi ngựa phóng đi khá xa mới thấy mấy tên lính đuổi theo hô cướp cướp. Nguyễn Khắc Nhu nói với Nguyễn Thái Học: - Thời buổi loạn lạc. Bọn cướp thường xuyên đến các làng cướp của, quấy phá. Có khi chúng táo bạo vào cả thị trấn cướp hàng của dân buôn bán. Chính quyền thì bất lực. Mấy thằng lính thì chạy bộ làm sao đuổi theo được bọn cướp cưỡi ngựa. Oái oăm, đám lính không bắt được cướp, thấy hai người từ trong làng đi ra liền đòi xét hỏi giấy tờ. Hai người đành phải đưa thẻ căn cước cho chúng xem. Tên lính xem căn cước hai người, nhưng hình như hắn không biết chữ nên cứ nhìn xoáy vào mặt hai người. Hắn hỏi Nguyễn Thái Học: - Ngươi ở đâu tới? - Ngổ ở tâu à? Ngổ ở Tôồng Tăng (Đồng Đăng), Làng Sơn (Lạng Sơn), ti puôn pán thôốc pắc thôốc lam thôi à! - Buôn bán thuốc bắc thuốc nam hả? Thế bán ở những đâu? - Ây dà, ti puôn ti pán khắp lơi à! Tâu cũng puôn tâu cũng pán à! Hôm lay gặp ôông lày thì pán cho ôông lày à! Tên lính quay sang Nguyễn Khắc Nhu, hỏi: - Còn ông này ở đâu? - Anh đã xem căn cước, sao còn hỏi ở đâu? - Việc xem cứ xem, việc hỏi cứ hỏi. - Tôi là Nguyễn Khắc Nhu, ở làng Song Khê. Tên lính bỗng sững lại, nhìn ông chằm chằm rồi bỗng hỏi: - Thế ông có phải là Xứ Nhu không? - Đúng rồi! Tên lính bỗng sụp xuống vái: - Lạy ông, lạy ông! Trước ân nhân mà tôi không biết. Mẹ tôi ốm nặng, tôi là lính không về được. Người nhà tôi đã đưa đến ông bắt mạch cắt thuốc, cứu mẹ tôi qua cơn nguy kịch. Cả nhà tôi đội ơn ông. - Có phải nhà bà Rô ở Yên Khê không? - Đúng rồi, đúng rồi. Không có ông thì mẹ tôi đã chết. Hôm ấy cũng may là gặp cô Giang có công chuyện đi qua Yên Khê, thấy mẹ tôi bạo bệnh, liền mách đưa đến ông chạy chữa. - À ra thế! Vậy anh lính cũng quen cô Giang à? - Vâng! Chúng tôi quen cả cô chị tên là cô Bắc. Các cô người Phủ Lạng Thương. Tốt lắm! Thỉnh thoảng các cô ấy vẫn đem hàng quà đến bán cho cánh lính chúng tôi. Không có cô Giang kịp thời đưa mẹ tôi đến thầy hôm đó thì khốn. Vậy mà chưa có gì gọi là để tạ ơn thầy. - Làm thầy thuốc thấy người bệnh thì phải cứu bằng mọi cách. Hôm nay, may quá, tôi đi Chợ Gồ mua thuốc, gặp ngay chú người Tầu này bán cho được một số vị thuốc quý, tiện thể tôi nhờ luôn anh ta quẩy gánh về nhà. - Thế thì quả là may thật! Chúng tôi xét hỏi giấy tờ là do lệnh trên thôi. Thoạt kỳ lý là do bọn cướp hoành hành quá đáng, hai nữa là đội sếp nói dạo này có hội kín hoạt động. Nên phải tăng cường kiểm soát. Nguyễn Thái Học nói chen vào: - Pọn cướp rất nguy hiểm! Pọn hội kín cũng rất nguy hiểm! Các anh lính rất tôốc, hảo lớ, hảo lớ! Pọn ấy cần phải pắt ngay, pắt ngay! - Chúng tôi sẽ cố gắng. Nguyễn Khắc Nhu cũng nói rằng các chú lính làm việc như vậy là rất tốt. Bảo vệ dân, thương dân là đúng đạo lý. Có điều gì cần giúp đỡ cứ nhờ qua Cô Bắc, Cô Giang, các cô ấy sẽ nói lại. Mấy tên lính lễ độ chào hai người. Nguyễn Khắc Nhu còn dặn thêm, có gì giúp được Cô Bắc, Cô Giang thì cố gắng giúp nhé. Cùng là người Việt chung nòi giống Lạc Hồng cần phải đồng lòng thương nhau. Đi được một đoạn, Nguyễn Khắc Nhu mới nói với Nguyễn Thái Học rằng khá khen anh ứng phó linh hoạt, đóng vai người Tàu rất đạt. Còn mấy người lính đó rất có khả năng cô Bắc, cô Giang đã thuyết phục đưa vào tổ chức. Nguyễn Thái Học cũng rất nể trọng uy tín của Nguyễn Khắc Nhu ở vùng đất này. Tuy là ông giáo nghèo, nhưng có tiếng là Xứ Nhu, lại biết nghề thuốc, luôn thu phục nhân tâm, nên được dân chúng quý mến, được các điền chủ và thân hào chức sắc ở địa phương chăm lo giúp đỡ. Tiếng nói của Xứ Nhu có nhiều người nghe theo. * Đến được cơ sở chế tạo bom mìn thì đã muộn. Nguyễn Thái Học rất muốn biết thực tế công việc đầy nguy hiểm này. Nếu không có Nguyễn Khắc Nhu đưa đi, hẳn là Nguyễn Thái Học hoặc là sẽ không bao giờ hình dung nổi hoặc chẳng bao giờ biết được những gì đang xảy ra sau những vẻ yên tĩnh của làng quê. Đường vào làng quả là ngoắt ngoéo. Bên ngoài nhìn chỉ thấy một bờ tre xanh. Đến gần mới thấy hàng tre ken dày lớp lớp như thành lũy. Tre ngăn những cuộc thâm nhập từ bên ngoài. Tre đề phòng những cuộc cướp phá của bọn du thủ du thực. Từ bao đời tre gắn bó với đời sống người dân. Trải bao cuộc chống ngoại xâm, lũy tre cùng với ao hồ đã bao lần ngăn chặn bước tiến của đối phương. Càng đi sâu vào làng, Nguyễn Thái Học càng thấy như rờn rợn vì có những cảm giác lạ. Nếu không có người đồng hành thông thạo đường ngang lối tắt, rất dễ sa vào chỗ bế tắc không biết lối nào mà ra. Những năm đất nước tao loạn, làng nào cũng bảo nhau lo phòng vệ. Ngoài rặng tre đầy gai góc, nhiều nơi còn cho đào kênh quanh làng. Phía trước là một ngôi nhà gỗ trông thật bề thế, vườn cây um tùm, nhưng chưa thấy lối vào. Nguyễn Thái Học thầm nghĩ đây phải là ngôi nhà của người khá giả trong làng. Không là người có chức sắc thì cũng là điền chủ. Phải đi qua mấy bờ rào mới đến được ngôi nhà, nằm sâu tận trong ngõ. Phía trước là một ao sen đang mùa hoa, hương tỏa ngan ngát hòa với mùi bùn hoai hoai trong gió chiều. Một đàn chó dữ tợn gần như đồng thanh sủa ầm ỹ không mấy thiện chí. Hai người phải dừng bước. Gặp tình huống này, nếu người yếu bóng vía, sẽ bị chúng tấn công không khoan nhượng. Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu quay lưng lại nhau thủ thế. Lúc ấy mới nghe tiếng quát chó của người nhà. Nghe tiếng quát, lũ chó chỉ còn gừ gừ rồi lảng dần chạy vào trong sân. Chủ nhà tuổi chừng ngoại tứ tuần, áo the khăn xếp, từ trong nhà chạy ra, trông thấy Nguyễn Khắc Nhu liền reo lên: - Bác Xứ Nhu, cả nhà đợi bác lâu quá! - Đáng lẽ không muộn. Nhưng gặp bọn cướp, phải lánh ít phút. Lại gặp cánh lính hỏi han chuyện trò, nên muộn. - Hai vị vào cả đây. Mọi việc đã sẵn sàng... Nguyễn Khắc Nhu giới thiệu để chủ khách làm quen nhau: - Đây là anh Nguyễn Thái Học giữ vai Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng, còn đây là chánh tổng của tổng này, là cơ sở của Việt Nam Dân Quốc. - Ấy phải giới thiệu là hội viên của ông Nguyễn Khắc Nhu chứ! - Hân hạnh được làm quen với vị chánh tổng. - Tôi cũng lấy làm sung sướng được gặp các vị yếu nhân của đảng. Nguyễn Thái Học quan sát cơ ngơi nhà chánh tổng, dãy nhà trên bằng gỗ năm gian, chồng bồn kẻ chỉ, những bức lèo công phu, chứng tỏ chủ nhân rất am tường kiến trúc truyền thống dân tộc, dãy nhà dưới là nơi bếp núc và là nơi kẻ ở làm công. Không thấy nơi nào có thể chế tạo bom mìn. Chủ nhà dẫn hai người ra phía sau vườn và chỉ một căn hầm lớn núp dưới rặng cây nhót lá rậm um tùm, bề ngoài khó phát hiện đấy chính là nơi hằng ngày đúc thuốc nổ và lắp kíp cho hàng trăm trái bom trái mìn. Rất nhiều những chiếc khuôn bằng gang được xếp gọn gàng. Rất nhiều bóng đèn hoa kỳ dùng làm cốt vỏ bom tay. Mìn đúc bằng xi măng xong chuyển vào kho cất giấu. Ở ngoài khó có thể biết rằng nơi đây đã thu gom hàng tạ thuốc nổ và các vật liệu làm bom mìn của chính đám lính bán cho. Nguyễn Khắc Nhu nói: - Đây là một trong hàng chục cơ sở cung cấp bom mìn được chuẩn bị, sẽ cung cấp đầy đủ khi cần. - Vâng! Chúng tôi sẽ đáp ứng nhu cầu. Nguyễn Thái Học nói: - Rất thú vị. Vũ khí được chế tạo ở ngay nhà chánh tổng thì bọn Pháp nghi ngờ thế nào được. Chỉ có điều bom mìn vận chuyển đi nơi khác rất nặng và dễ bị lộ. Càng nhiều cơ sở càng tốt. Ta sẽ có kế hoạch phát triển lên mạn Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên, Phú Thọ và cả Hà Nội nữa. - Xem thế là đủ biết tinh thần cách mạng của dân mình thật lớn lao. - Thôi, chắc mọi người đã đói, ta về ăn cơm. Cánh nhà bếp rộn rịp bưng thức ăn, mâm bát, lên gian nhà trên. Chiếu trải ra cánh phản to. Chủ nhà mời khách rửa tay nước nóng trong chiếc chậu đồng đặt ngoài hè. Nguyễn Thái Học bất ngờ thấy Nguyễn Thị Giang cũng có mặt. Nguyễn Khắc Nhu thoáng qua có thể nhận ra vẻ ngỡ ngàng của vị Chủ tịch Việt Nam Quốc Dân đảng. Ông mỉm cười nói với Nguyễn Thái Học: - Anh bạn trẻ không việc gì phải ngạc nhiên! Tất cả mọi việc đã có tính toán kỹ cả rồi. Cô Giang lên đây theo kế hoạch chúng tôi đã định trước từ ngày hôm qua. Khi ta về đến đây là có cơm ăn, để rồi ta bắt tay vào công việc ngay, cơ sở khỏi bị động. - Thì ra bác đã lên kế hoạch từ hôm qua? Nguyễn Thái Học càng trân trọng sự chu đáo cặn kẽ trong tổ chức sắp xếp công việc của Nguyễn Khắc Nhu, anh nói: - Kế hoạch của bác Nhu thật chặt chẽ. Đây cũng là điều rất cần thiết đối với tổ chức của chúng ta. Nể bác quá! Rất cảm ơn! - Có gì đâu! Nguyễn Khắc Nhu chỉ sang Nguyễn Thị Giang: - Vì tôi có cô gái này tham mưu đấy! Phải cảm ơn cô ấy mới đúng! - Cháu làm theo sự chỉ bảo của chú mà! Nguyễn Thái Học thành thật: - Vâng, xin cảm ơn cô Giang. - Cảm ơn chú Nguyễn Khắc Nhu chứ! Nguyễn Thị Giang ngước mắt lên gặp cái nhìn rất cảm mến của Nguyễn Thái Học, khiến cô lúng túng, vội nhìn sang nơi khác. Có lẽ đây là cái nhìn đầy ấn tượng gieo mãi vào lòng cô gái xứ Kinh Bắc một cảm giác khác lạ, thật khó giải thích. Như thể có luồng điện sinh học chiếu thẳng vào cô, tự dưng cô thấy như mặt đỏ lựng, cơ thể nóng bừng. Chủ nhà phấn chấn: - Lần đầu tiên gặp anh Học, chúng ta cùng nâng chén chúc tổ chức của chúng ta ngày càng lớn mạnh và thành công. - Rất vui! Đã từ lâu Nguyễn Thái Học mới được ăn một bữa cơm quê thân tình như thế này. Bữa ăn có thịt gà luộc, lại có cả canh cua đồng với cà pháo muối rất hợp khẩu vị. Các món đồng quê dân giã, nhưng thời buổi thóc cao gạo kém, cũng phải là nhà khá giả mới có được bữa ăn tươm tất như thế. Nhà chủ thật tâm lý, người đi đường xa về mà có bát canh cua thì thật tỉnh người. Cơm nước xong trời cũng đã tối. Chủ nhà lưu giữ mọi người nghỉ lại. Cũng thật bất ngờ, đấy lại là đêm Nguyễn Thái Học được nghe hát quan họ do chính người quê quan họ hát. Trong sân, ngát hương ngọc lan, dưới bóng trăng thanh, nhà chủ cho kê ghế ngồi nghe hát. Những câu hát liền anh liền chị luyến láy thật tài tình. Chỉ người quan họ mới hát nổi. Ôi, cái giọng hát thật nhẹ nhàng mộc mạc mà da diết đến thế. “Rằng là anh Hai ơi… anh Hai về là anh Hai tính là anh Hai toán… Tính toán làm gì… Có yêu nhau thì lấy quách nhau đi.” Thật là dùng dắng. Thật là diệu vợi. Mà người hát lại chính là cô Giang. Rượu được chủ nhà cho rót ra những chiếc chén mắt trâu, đưa đến tận tay từng người. Vừa uống, vừa nghe, vừa tán thưởng. Mấy liền anh liền chị trong làng quan họ càng hát càng say sưa. Lúc hát đơn, lúc hát đôi, lúc hát đối nam nữ. Sao mà nhuần nhị. Sao mà tình tứ vậy. Ông bà ngày xưa khéo đặt những lời ca xao xuyến trữ tình. “Ngồi rằng là ngồi tựa í a có mấy mạn i ối a mạn thuyền, là ngồi tựa có a mạn thuyền. Trăng in í a là in mặt nước í a, cũng có a càng nhìn là càng nhìn non nước càng xinh…” Nguyễn Thái Học thầm nghĩ, sức mạnh của văn hóa thật là kỳ diệu. Lưu truyền từ đời này sang đời khác. Chỉ chừng ấy giọng điệu. Chừng ấy lời ca mà đi suốt chiều dài thời gian. Trải bao nhiêu thế hệ truyền nối. Quan họ cũng như vốn dân ca của các dân tộc cả nước đã trở thành hồn nước. Sức mạnh bền bỉ ấy đã từng làm nên bản sắc dân tộc, chiến thắng bao thế lực ngoại xâm. Anh thốt lên: - Thật là tuyệt vời! - Tuyệt vời! Người hát tới khi trăng lặn. Người nghe muốn nghe mãi. Sáng hôm sau, lấy lý do còn ở lại chữa bệnh giúp bà con, Nguyễn Khắc Nhu cho Nguyễn Thị Giang về trước cùng Nguyễn Thái Học. Chưa bao giờ Nguyễn Thái Học đi chung một đoạn đường dài với cô gái nào. Quả thật chàng rất thích thú. Không hiểu Nguyễn Khắc Nhu vô tình hay cố ý? Dù thế nào thì Nguyễn Thái Học cũng rất cảm ơn Nguyễn Khắc Nhu đã tạo cho anh một cơ hội gần gũi phụ nữ. Cả chặng đường hai người chỉ nói với nhau về công việc. Nguyễn Thái Học kể lại hôm qua gặp toán lính đi bắt cướp, họ nói rằng có quen cô Giang. Nguyễn Thị Giang bảo: - Đúng! Họ là lính ở đồn Nhã Nam, em và chị Bắc thường bán quà sáng cho họ, dần dà làm quen. Họ nói rằng họ sẵn sàng giúp đỡ chúng em khi cần. - Thế thì tốt quá! Tranh thủ được sự ủng hộ của binh lính người Việt trong quân đội Pháp là một việc làm thật táo bạo và có lợi. - Họ cũng là con em người dân Việt, cũng nhiều người xuất thân chân lấm tay bùn, cũng thương cha nhớ mẹ, ít nhiều cũng có lương tâm với dân tộc và lòng yêu nước nhất định. Họ cũng bất bình với người Pháp. Chúng em đã vận động họ ủng hộ cách mạng. - Thế là cô Bắc và cô Giang có nhiệm vụ nặng nề rồi. Các cô phải có nhiệm vụ thành lập được càng nhiều các chi bộ đảng càng tốt trong hàng ngũ người Việt đang đồn trú ở một số tỉnh. Cần vận động thêm một số chị em khác nữa cùng tham gia. - Thế các anh không ngại phụ nữ chân yếu tay mềm à? - Thì hôm trước tôi đã nhận khuyết điểm rồi còn gì! - Nhưng phụ nữ chúng em có tính thù dai lắm đấy! Chừng nào các anh còn coi thường phụ nữ, chúng em còn đấu tranh! - Thế thì tôi xin được thua ngay, làm người chiến bại trước phụ nữ thì thật là diễm phúc! - Không thua cũng phải thua! Nguyễn Thái Học cười, rồi chợt nhớ giọng hát quan họ tối qua liền nói: “Em hát quan họ thật là có duyên, anh không thể nào quên được”. Biết là Nguyễn Thái Học khen chân thành, nhưng Giang vẫn nói: “Lời em thô thiển nôm na. Liệu anh khen thật hay là khen chơi?” Nguyễn Thái Học chỉ còn biết quả quyết: - Thật! Không dám khách sáo. Thề rằng đời tôi sẽ gắn bó với Bắc… Giang! Chả hiểu trong câu nói có hàm ý gì không? Nguyễn Thị Giang tiếp: - “Nói nhời thì giữ lấy nhời Đừng như con bướm đậu rồi… lại bay!” Hai người rảo bước trên đường làng. Nắng chang chang. Nguyễn Thái Học che đầu bằng chiếc khăn bông. Chỉ một mình Giang có nón. Giang chân thành: - Anh đội nón của em này! Để em đội khăn cho. - Sao lại thế được! Tôi đội nắng quen rồi. Qua ven đồi kia, tôi bẻ cành cây che nắng là đi cả ngày cũng không sao mà. Nguyễn Thái Học leo lên mé đồi, bẻ một cành cây lá xum xuê, che lên đầu. Chẳng may bị bọ ngứa rơi vào cổ. Giang cuống cuồng vuỗi bọ ngứa cho anh. Học cảm giác bàn tay Giang chạm vào cổ anh mát lành làm sao! Chương VII LÀNG QUÊ THANH VẮNG thành quách nhiều khi đổ sập riêng quê vẫn luỹ tre làng vẩn vơ đôi khi tiếng cuốc lại gợi nỗi buồn mênh mang Đúng theo lời hẹn, Nguyễn Thái Học về Hưng Yên, đến Châu Giang tìm về làng Đa Ngưu, quê của Phó Đức Chính. Không khó khăn gì khi tìm về một làng nổi tiếng về nghề thuốc bắc đã có danh từ lâu đời. Vừa tới cổng làng đã thấy Phó Đức Chính tươi cười đứng đợi: - Anh tìm hỏi đường về quê em có khó không? - Có gì mà khó! Cứ thấy mùi thuốc bắc mà lần tới, cứ nơi nào treo biển xem mạch bốc thuốc mà hỏi, chệch sao được! - Anh đến kịp thời quá. Anh phải gỡ cho em một chuyện rất khó thuyết phục đối với cha mẹ em. - Chuyện gia thất chứ gì? - Anh đoán trúng thế! Cha mẹ em “đánh giây thép” bắt em về để đi hỏi vợ. Các cụ lo cho thằng con út ở xa. Bắt lấy vợ để giữ chân em. Em đã thuyết phục rằng, đã có hai người anh và một bà chị ở nhà rồi, thì một mình con có đi xa, cha mẹ khỏi phải lo. - Cha mẹ nào chả thế. Cha mẹ không lo cho con cái mới là lạ! Mình sẽ cố gắng làm đồng minh của Chính để thuyết phục các cụ. Qua vùng đất nhãn nổi tiếng. Những vườn cây nhãn đang mùa ra hoa, ong đi kiếm mật bay từng đàn, có khi rợp cả một khoang trời. Mật ong lấy từ hoa nhãn rất quý. Nó là một vị thuốc rất bổ làm tăng sức dẻo dai cho cơ thể và hàn gắn các vết thương. Người Hưng Yên rất tự hào về loại quả đặc sản, đã từng là phẩm vật quý tiến vua thời trước. Phó Đức Chính rất thích thú kể về loại cây sâu rễ bền gốc nhờ thổ nhưỡng và khí hậu vùng này mà có. Cũng là giống nhãn này mà di thực đi trồng ở vùng đất khác là biến dị, giữ được vị ngọt thơm thì trơ cùi, giữ được cùi dày thì vị nhạt. Cho nên Hưng Yên vẫn giữ cây nhãn tổ để duy trì một loại cây quả đặc sản thiên nhiên ban tặng. Chỉ cần nhắc tới nhãn là người ta nói ngay tới Hưng Yên. Thân sinh của Phó Đức Chính là nhà nho kiêm nghề bốc thuốc bắc Phó Đức Chân hiệu Đức Tường, là người luôn giữ nếp nhà gia giáo. Răm rắp theo một khuôn thước. Con cái buộc phải nghe lời. Vậy mới thật là khó khăn trong lời ăn tiếng nói làm xiêu lòng các cụ. Phó Đức Chính đưa Nguyễn Thái Học về nhà mình. Thầy thuốc Đức Chân đang bận bắt mạch bốc thuốc cho khách nên thấy Nguyễn Thái Học lễ phép chào, cũng chỉ trả lời qua quýt, rồi lại chú mục vào công việc. Ông bảo Phó Đức Chính đưa Nguyễn Thái Học vào phòng đọc sách, xong việc ông sẽ tiếp chuyện. Đúng cốt cách của một nhà nho. Trên tủ tàng thư hầu hết là những cuốn sách chữ nho bằng giấy gió, đã được chủ nhân đọc quăn hết cả góc sách. Trên đó còn có mấy cuốn sách chữ quốc ngữ. Nguyễn Thái Học lướt qua thấy có các tập: "Nam hoa kinh" của Trang Tử, "Ly tao" của Khuất Nguyên, Thơ của Đỗ Phủ, "Sử ký" của Tư Mã Thiên, "Đạo đức kinh" của Lão Tử… đều là những cuốn do Nhượng Tống dịch. Nguyễn Thái Học nghĩ, nói chuyện với bậc lão nho chắc chẳng dễ dàng đâu. Không như nói chuyện với cha mẹ mình ở nhà, vốn là dân quê mùa học hành chả đáng là bao. Lúc nào cũng nôm na xuê xoa cho xong việc. Hết việc đồng áng chợ búa, về nhà cơm cháo xong là ngả người làm một giấc đến sáng. Mọi việc đều đơn giản. Lát nữa tiếp chuyện với thầy thuốc Đức Chân, sẽ phải ăn nói sao đây cho thuận tai, nhất là chuyện Phó Đức Chính đang nhờ. Bà Đức Chân sửa soạn một mâm cơm tươm tất cho cho con giai và bạn đến chơi. Ông Đức Chân mở tủ lấy bình rượu thuốc và ba chiếc ly nhỏ rồi mời Nguyễn Thái Học và con giai vào bữa. Ông thong thả nói: - Bây giờ cha con, bác cháu ta mới có dịp chuyện trò với nhau. Lúc nãy thì phải lo việc chữa bệnh cho thiên hạ đã. Việc nào cần trước phải làm trước. Có phải thế không, anh Học? - Vâng, thưa bác! - Vậy xin hỏi anh, quê quán ở đâu, song thân thế nào? - Thưa bác, quê cháu ở làng Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, Vĩnh Yên, cha mẹ cháu làm nghề nông và chạy chợ. Đời sống cũng chỉ vừa đủ ăn. Cha mẹ cháu đều khỏe mạnh cả. - Thế là tốt rồi! Đủ ăn và mạnh khỏe là điều cốt tử đấy cháu ạ. Thế ở Vĩnh Yên thì quê nhà ta có gần quê ông Đội Cấn không? - Dạ thưa, từ làng cháu sang làng ông Đội Cấn chỉ cách một cánh đồng. - Gớm, cái ông Đội Cấn cũng là người chí cả, dũng lớn, cùng ông Lương Ngọc Quyến nổi lên đánh Pháp, chiếm được cả Thái Nguyên. Khi thất bại thì tự sát chứ không chịu sa vào tay kẻ thù. - Cháu hồi còn ở nhà có gặp bà mẹ của ông Đội Cấn. Dân làng bảo rằng cụ thương con quá đến phát điên. Cứ gặp cháu khi nào là cụ hát chán rồi lại nói, hãy trả thù cho con cụ. - Thế là không điên đâu. Phẫn chí quá đấy, cháu ạ! Nguyễn Thái Học thấy ông Đức Chân nói năng xởi lởi, phong độ đàng hoàng thì rất mừng. Người ta cứ bảo các nhà nho thường hay khó tính. Nhưng xem ra ông Đức Chân không phải người như vậy. Thế thì chuyện riêng Phó Đức Chính nhờ chắc sẽ êm xuôi. Nguyễn Thái Học tiếp tục câu chuyện: - Thưa bác, chúng cháu còn trẻ người non dạ, chỉ mong có người chỉ giáo cho những gì còn chưa nghĩ nổi. - Tôi ở tỉnh lẻ, không được tiếp xúc rộng với thiên hạ, cũng có điều lạc hậu với thời cuộc, không phải điều gì cũng am tường cả đâu. Mỗi thời mỗi khác. Mỗi đời mỗi biến đổi. Chữ vuông đã hết thời, bây giờ là thời của chữ quốc ngữ. Cách học cách nghĩ cũng khác. - Cháu thời nhỏ cũng được cha mẹ cho đi học chữ nho, rồi sau mới học trường Pháp - Việt. Rồi cháu học Cao đẳng sư phạm, sau mới học Cao đẳng thương mại. May mắn chúng cháu gặp nhau rồi cùng kết thân. Cháu gặp Phó Đức Chính và cùng sinh hoạt trong nhóm Nam Đồng thư xã. - Thế thì quý lắm. Ở đó có những người thành danh trong báo giới, như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống. Các anh giao du với những người như vậy là đáng giao du. - Trời, bác biết các anh ấy cặn kẽ vậy? - Cũng là do đọc sách đọc báo. Những cuốn sách các anh ấy soạn và dịch của Tàu của Tây rất đáng giá. Tôi sưu tầm được một số sách từ Nam Đồng thư xã mà ra. - Lúc nãy cháu có xem một số cuốn sách do anh Nhượng Tống dịch trên tủ sách của bác. - Đấy, tôi nể phục anh Nhượng Tống là ở chỗ ấy. Tôi cũng biết chữ nho, nhưng đọc thì biết mà không thể dịch nổi ra văn phạm nước mình. Tôi lần mò kiếm được bộ sách dịch của anh Nhượng Tống, nhưng có hai cuốn sách tôi không sưu tầm, là cuốn "Tây sương ký" của Vương Thực Phủ và cuốn "Hồng lâu mộng" của Tào Tuyết Cần. Vì những cuốn sách ấy tôi đọc không hợp. Trong những cuốn sưu tầm, tôi thích đọc "Đạo đức kinh" của Lão Tử, vì cuốn ấy tiềm tàng triết lý sống. Càng đọc càng sáng ra nhiều điều. - Vâng, anh Nhượng Tống và anh Phạm Tuấn Tài, anh Phạm Tuấn Lâm đều là người học vấn uyên thâm. Anh Nhượng Tống, tên chính là Hoàng Phạm Trân vừa am tường Nho học vừa hiểu biết Tây học. Các anh ấy dịch cả sách của Tôn Dật Tiên và sách của một số triết gia phương Tây. Gần các anh ấy chúng cháu cũng sáng ra nhiều điều. Chúng cháu vẫn tranh thủ đọc để thêm hiểu biết. - Diễm phúc đấy! Diễm phúc đấy! Tôi nhớ Nhượng Tống có câu viết trên báo, đại ý “người Pháp tay trên thì đề huề Pháp Việt, tay dưới móc túi dân Việt”! - Vâng! Dân ta thất học, thống khổ và bần cùng cũng là do vậy. Ông Đức Chân đứng dậy, lấy từ tủ sách ra một bản sách. Ông vuốt vuốt cho mép sách phẳng phiu rồi lần giở một trang ông đánh dấu. Gương mặt ông như giãn nở ra, cặp kính lão nhướng lên. Ông bảo: - Đọc "Đạo đức kinh" của Lão Tử càng ngẫm càng thấy cái sự học thật bao la. Đời người ngắn ngủi lắm, không làm sao thấu hết được mọi nhẽ. Nhưng học để tu chỉnh mình thì thật là thiết thực. - Thưa vâng! Cháu cũng chỉ mới được anh Nhượng Tống nói qua "Đạo đức kinh", chứ chưa được đọc. Ông Đức Chân nhấp chút rượu rồi trầm ngâm đọc thuộc từng đoạn nguyên tác "Đạo đức kinh", rồi giải thích thêm cho Nguyễn Thái Học và Phó Đức Chính nghe: - Đạo khả đạo, phi thường đạo. Danh khả danh, phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thủy. Hữu, danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu, thường hữu dục dĩ quán kỳ hiếu. Thử lưỡng giá, đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn. Một học giả am tường nho học giải nghĩa rằng: Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến. Tên mà có thể gọi ra tên ấy thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến. Không gọi là bản thủy của trời đất. Có là gọi mẹ sinh ra muôn vật. Cho nên, tự thường đặt vào chỗ không là dò xét cái thế vi diệu của nó (đạo); tự thường đặt vào chỗ có là để xét cái (dụng) vô biên của nó. Hai cái không và có cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu. Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu. - Thật là cao sâu. Chúng cháu còn phải học nhiều mới hiểu được những điều tiền nhân đã chiêm nghiệm. - Chẳng mấy khi bác cháu mình gặp nhau. Cũng là mượn chén rượu tâm giao để trải những điều tâm sự. Ở đời muôn vạn biến cải. Lịch sử nước Nam mình cũng vậy. Những bậc anh hùng cứu thế trong thời loạn, những anh hùng chống giặc ngoại xâm, khi dựng nghiệp thì thật vẻ vang, nhưng đến đời con cháu thì lại đổ đốn. Ăn chơi sa đọa, vua chẳng ra vua, quan chẳng ra quan, nhũng nhiễu dân, hà lạm công quỹ, chia chác điền thổ, dung túng bọn làm càn. Nghĩ mà đau đớn cho dân ta. Bây giờ người Pháp đè đầu cưỡi cổ, vua tôi bù nhìn, những người yêu nước thương dân thì bị đàn áp… Cũng là để cháu thông cảm vì sao bác lại tôn thờ cái sự vô vi… - Vâng, chúng cháu hiểu. - Nhưng đối với tuổi trẻ thì phải khác cháu ạ. Phải nhập thế. Phải tỏ rõ chí làm trai. Câu của cụ Nguyễn Công Trứ thật là chí lý: “Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông”. Thật chí lý! Thật chí lý! Không có lẽ trai nam nhi nước mình lại hèn kém? Phó Đức Chính lặng lẽ ngồi ăn, thể hiện đúng bậc làm con, chỉ chú mục nghe cha mình và Nguyễn Thái Học chuyện trò. Biết rằng cha đang say sưa những điều ông hằng tâm đắc. Giờ lại có người để trút những tâm sự thì thật là thỏa nguyện đối với tuổi già. Nguyễn Thái Học thưa: - Cháu thấy những điều bác nói thật thấm thía. Chúng cháu tuổi trẻ chưa làm được gì nhiều, nhưng không bao giờ dám phụ lòng mong mỏi của các bậc sinh thành. - Nghe Đức Chính nói rằng, cháu đã có bản kiến nghị gửi tới Toàn quyền Đông Dương? - Dạ thưa bác, vâng! Cháu đã gửi bản kiến nghị lần thứ hai cho Toàn quyền Đông Dương, cháu cũng đệ giấy xin phép phủ Thống sứ Bắc Kỳ xuất bản tờ báo Nam Thanh nhằm khuyến khích thương nghiệp, nâng cao dân trí, nhưng họ không hề mảy may trả lời. - Thế cũng là người to gan đấy. Khởi nghĩa Bãi Sậy, khởi nghĩa Hương Khê, khởi nghĩa Ba Đình, khởi nghĩa Thái Nguyên, khởi nghĩa Yên Thế… chống người Pháp đều thất bại. Rồi đến cụ Phan Châu Trinh, cụ Phan Bội Châu kia, vẫn bế tắc hoàn bế tắc… Bây giờ đối khẩu với họ, liệu họ có nghe? - Dạ thưa bác, dân mình xưa nay đều muốn yên ổn làm ăn. Có bao giờ muốn gây hằn gây thù với ai đâu. Chỉ vì người Pháp cậy là nước hùng cường, ức hiếp dân ta. Những yêu sách chính đáng của người Việt không bao giờ họ thèm nhòm ngó. Cực chẳng đã người mình mới phải đấu tranh. Cực chẳng đã mới phải yêu sách. Ông Đức Chân thở dài. Thời thế rồi không biết rồi ra sao? Người Pháp thì ra sức vơ vét tài nguyên, mộ phu đi hầm mỏ, mộ phu đi đồn điền cao su, bao nhiêu người chết rày chết rạc. Dân như ngồi trên chảo lửa. Vua quan thì vinh thân phì gia. Coi dân như con ong cái kiến. Bỗng ông Đức Chân ngâm nga một đoạn thơ, giọng sâu thẳm như tự trong hồn: Trường sa phục trường sa Nhất bộ nhất hồi khước Nhật nhập hành vị dĩ Khách tử lệ giao lạc Bãi cát dài lại bãi cát dài. Đi một bước như lùi một bước. Mặt trời đã lặn, chưa dừng được. Lữ khách trên đường nước mắt rơi. Ông Đức Chân trầm ngâm: Đó là bài “Sa hành đoản ca” của Chu Thần Cao Bá Quát đấy! Sự đời không đơn giản. Người ấy đã từng nổi lên chống triều đình một thời. Nhưng mệnh trời không cưỡng nổi. Nước Nam mình không thiếu người tài giỏi đâu. Nguyễn Công Trứ đấy, lúc làm tới thượng thư, lúc làm anh lính thú. Khí chất khí khái mấy ai bằng? Nào nào! Thằng nào sợ thằng nào. Đã sa xuống thấp lại lên cao! Rồi đại thi hào Nguyễn Du cũng vậy. Tài cao chí cả mà tâm sự đầy mâu thuẫn, sự nghiệp đầy mâu thuẫn. Đường đường một đấng anh hào. Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai. Thế mà cũng có lúc thốt lên: “Ám tụng thiên vấn chương. Thiên cao hà xứ vấn?” (Thầm đọc bài ca hỏi trời. Trời cao biết đâu mà hỏi?)… Gương ấy để mà noi. Chỉ mong các cháu xứng với chí làm trai. Nhận thấy cha mình đang đầy phấn khích, Phó Đức Chính ra hiệu cho Nguyễn Thái Học nói hộ điều anh đã nhờ. Nguyễn Thái Học cũng thấy đây là cơ hội tốt nhất để tâm công ông già. Anh lựa lời: - Vâng, người xưa chí đã cao, đức đã lớn. Thời nay chúng cháu nguyện noi theo. Chỉ có điều phải được các bậc cha bác cảm thông, tạo điều kiện để cháu con thực hiện được ước vọng. - Hẳn nhiên rồi! Anh Học thì tôi không dám có điều gì bình phẩm. Chỉ lo Phó Đức Chính có đủ bản lĩnh để cùng các anh lo việc giang sơn hay không? - Chúng cháu tin là bác sẽ ủng hộ những suy nghĩ, những việc làm của chúng cháu. Làm sao thỏa chí trai trong lúc nước nhà còn đang cơn tù túng. Ông Đức Chân quay sang Phó Đức Chính, hỏi trong tâm trạng thật sự hài lòng, thật sự độ lượng: - Thế Phó Đức Chính thì sao? - Thưa cha, anh Nguyễn Thái Học đã nói những điều tâm đắc. Con cũng thấy thế là hợp với sở nguyện. Việc riêng tư con đã thưa với cha mẹ, cho con được có thời gian để mưu sự cùng với các anh trong tổ chức. Nguyễn Thái Học nói thêm: - Việc riêng tư, xin cho chúng cháu sẽ tính sau một chút. Chắc là hai bác chẳng nỡ nào bó buộc tuổi trẻ khi chưa có “danh gì với núi sông”. - Ờ, thế cũng phải. Có anh Học nói thì tôi tin. Việc của Chính, tôi sẽ nói với bà ấy hoãn lại. Sau hẵng tính. Phó Đức Chính thở phào. Câu chuyện giữa ba người đàn ông, một già hai trẻ quanh bữa cơm đạm bạc, thế mà mang lại được nhiều điều thật đáng ghi lòng tạc dạ. Thời cuộc đã làm cho con người ta không thể thuần nhất mọi ý tưởng. Các thế hệ càng khác nhau về suy nghĩ và ứng xử. Nhưng có một điều không mấy ai không quan tâm, đấy là vận mệnh của đất nước. Người yên phận thì cứ mặc lòng, mũ ni che tai, mặc cho con tạo xoay vần đến đâu cũng thây kệ. Người thì đau về cảnh non sông bị giày xéo, nhưng không biết làm thế nào, đành kêu một tiếng chả biết có thấu trời. Người thì tìm lối cứu nước, nhưng muôn vàn bế tắc. Bao cuộc khởi nghĩa không thành. Phong trào Cần Vương thì thủ cựu. Chả lẽ cứ mãi theo chế độ quân chủ vua tôi lỗi thời. Đành rằng cũng có những ông vua triều Nguyễn yêu nước, muốn rửa nhục nô lệ, nhưng chả lẽ để rồi lại vẫn bo bo giữ lấy cái ngai vàng? Cụ Phan Châu Trinh muốn học hỏi nước ngoài, đưa đất nước tiến bộ như nước Pháp để đuổi Pháp. Nhưng chỉ là ảo tưởng. Bao giờ đất nước mình tiến kịp đất nước người ta? Cụ Phan Bội Châu lại muốn cho lớp trẻ đi học người Nhật, nhờ họ để mà chống Pháp. Thế cũng là ảo tưởng. Pháp nó bắt an trí. Cũng là một cách tù! Phó Đức Chính như khám phá ra cha mình ở những kiến giải sâu xa về cuộc sống. Nhưng vì mưu sinh và tuổi tác, không thể khác hơn là chăm lo miếng cơm manh áo cho cả gia đình. Gỡ được mối ràng buộc của cha mẹ để được vẫy vùng thật là một niềm vui đối với chàng thanh niên mới hai mươi tuổi đời. Nguyễn Thái Học cũng rất vui vì được tiếp xúc với một người mẫn cảm với thời cuộc. Người có nỗi đau nhân thế sâu xa. Nhưng cũng có phần bất đắc chí. Tuổi già, không thể không an phận. Tuổi già, chỉ mong được bình yên. Không có sức lực để tính tới việc quốc sự đầy chông gai. Muốn vun đắp cho lý tưởng của con cái, nhưng cũng còn có nỗi hoài nghi. Thấy Phó Đức Chính vui ra mặt, Học liền kể công: - Không có mình đưa cụ vào “mê hồn trận” thì cậu có nói đứt lưỡi chưa chắc hai ông bà đã đồng ý để cậu tự do đâu nhé! - Có thế mới phải nhờ đến anh. Thế nào tôi cũng trả ơn mà! - Nhớ đấy! * Thực ra thì Phó Đức Chính cũng đã có một mối tình. Đấy là một mối tình mới chớm, tuy chưa thề non hẹn biển gì nhưng không thể nào quên được. Đó mới là sự cảm mến tự nhiên. Tuy có lần hai người đã từng nắm tay nhau dạo trên phố, mà chẳng hề nói được câu gì đáng kể. Họ lặng lẽ đi sát bên nhau. Có thể nghe rõ tiếng trái tim đập trong lồng ngực nhau, nhưng chưa hề dám bước qua ranh giới của tự nhiên. Đấy là Thắm. Người con gái đã khiến Phó Đức Chính rung động thật sự vì vẻ thuần hậu, trong trắng và ngây thơ. Người con gái ấy là mối tình đầu đời của Chính. Một mái tóc thật dài, đã có lần quàng cả sang cổ Chính vì sợ Chính lạnh. Chỉ đến khi hai thân thể như sát lại nhau thì Chính mới thấy thật sự hoang mang. Hoang mang bởi nhận ra mình đã bị sợi dây ái tình đang thít lại dần. Thắm nép vào người anh tin cậy. Còn anh chỉ biết bóp chặt tay Thắm trong lòng tay mình, không muốn rời ra. Khi Chính sang làm việc bên đất Lào thì mối tình ấy chỉ còn liên hệ qua những bức thư. Bức thư nào Thắm gửi, Chính cũng đọc thuộc làu. Rồi anh trân trọng cất giữ. Anh biết trái tim Thắm đã hướng về anh. Một trong số những bức thư ấy, Chính còn nhớ: Anh Chính ơi! Thấm thoát thoi đưa, đã xa anh cả tuần lễ nay rồi. Nhớ nhung chẳng chút nào vơi. Trăng khuyết rồi trăng lại tròn, mỗi khi trăng tròn em lại sợ đến những ngày trăng khuyết. Trăng trời còn biết được khi nào tròn khuyết, chứ con người thì khó mà đoán định ra sao? Anh Chính ạ! Nhắm mắt lại em vẫn có thể hình dung từ dáng đi, giọng nói của anh. Em chỉ mong ngóng ngày gặp nhau, để em được giãi bày những tâm sự đang chứa chất trong lòng em. Vậy mà anh cứ xa, càng xa. Đường anh đi biệt tin tăm cá. Anh có biết cho nỗi lòng em hướng về anh không? Tuy chúng ta chưa một lời thề thốt, nhưng cảm tình anh dành cho em, em biết. Chỉ mong ngày gặp anh gần nhất, để khỏi xa cách nhớ nhung. Thôi, giấy ngắn tình dài, mong anh giữ gìn sức khỏe, mong mỗi bước anh đi chân cứng đá mềm. Hẹn gặp anh ở quê nhà. Em. Hồng Thắm. Thế mà anh không dám bước xa hơn trong mối cảm tình ấy. Lý do duy nhất là, anh lo chẳng may trên bước đường hoạt động cách mạng có mệnh hệ nào sẽ khổ cả đời Thắm. Anh cố tình giãn dần những bức thư gửi Thắm, mong Thắm dần quên anh đi. Thắm vẫn thư cho anh, có bức chữ nhòe nước mắt. Và, anh đã gặp Thắm để nói hết những điều anh nghĩ, để Thắm khỏi đợi chờ. Điều này Phó Đức Chính đã kể cho Nguyễn Thái Học nghe. Hôm nay, qua ngõ phố nhà Thắm, Phó Đức Chính cố đi thật nhanh, như để quên hình ảnh Thắm mà không sao quên nổi. Nguyễn Thái Học hỏi Phó Đức Chính: - Đã dứt khoát rồi à? - Vâng, nhưng khó khăn lắm! - Việc ấy quả thật không dễ dàng. Thế Thắm bảo sao? - Thắm chỉ khóc! Anh ạ, lúc ấy em không dám nhìn vào mắt Thắm. Đôi mắt vời vợi khổ đau, hờn trách. Điều gì sợ nhất trên đời, có lẽ đó là phải nhìn vào đôi mắt phụ nữ đang khóc. Em chỉ biết xin lỗi. Vì đường cách mạng không biết sống chết ra sao… * Đi qua vùng đất Bãi Sậy, hình ảnh đập vào mắt mọi người trước hết là cảnh những người nông dân quá lam lũ. Đàn ông phong phanh vạt áo, chẳng chỗ nào đủ che kín người. Đàn bà mặc váy vá chằng vá đụp. Họ kéo cày bằng sức người. Cứ một người cầm cày cho hai người kéo trên những thửa ruộng lõng bõng bùn nước, có chỗ ngập ngang đầu gối. Nhẫn nại và cam chịu. Công việc nặng nhọc vắt kiệt sức lực họ. Không còn mồ hôi để nhỏ xuống ruộng nữa. Trông họ chẳng khác nào những tàu lá héo úa. Nguyễn Thái Học tự dưng nhớ tới những bức ảnh người Pháp chụp những nông dân Bãi Sậy nổi dậy khởi nghĩa, bị bắt, treo ở nhà thông tin phố Hoàn Kiếm, với lời chú thích sặc mùi thực dân: “những kẻ phản loạn”. Đó là những người đàn ông, đàn bà xác xơ, chân tay xương xẩu, gương mặt hốc hác, cổ đeo những chiếc gông lớn bằng gỗ, níu chúi về phía trước. Họ treo ảnh cốt để thị uy dân chúng và cổ động cho chiến công tiễu trừ những kẻ chống đối. Những nông dân trong ảnh và những nông dân trên cánh đồng này chẳng khác gì nhau. Ấy vậy mà vẫn tiềm tàng trong họ sức phản kháng mãnh liệt. Bất bình làm cho họ phản kháng. Khổ đau làm cho họ phản kháng. Bần cùng làm cho họ phản kháng. Họ như những hòn than, như những đống tro đống trấu âm ỷ ngọn lửa, chỉ cần có ngọn gió là sẽ cháy bùng lên. Đấy chính là tinh thần yêu nước thiêng liêng, thời nào cũng có. Phải vận động họ, tuyên truyền họ, để họ cùng đứng dậy chống lại cường quyền áp bức, mưu cầu lấy cuộc sống. Thấy Nguyễn Thái Học trầm ngâm, Phó Đức Chính hỏi: - Anh Học đang nghĩ gì vậy? - Mình đang nghĩ tới những người nông dân lam lũ kia. Tại sao họ bị cực khổ vậy? Đâu là quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc? Văn minh khai hóa của người Pháp có phải là chiếc bánh vẽ không? Mỗi câu hỏi đều có sẵn câu trả lời trong đó. Chỉ có điều, những người được học hành, người có cuộc sống khá giả hơn phải biết thương xót đồng bào mình. Phải cùng đồng bào mình quyết rửa nhục. Không ai làm thay người Việt Nam mình. Người Việt Nam phải đứng lên làm cách mạng giành lấy quyền sống, giành lại đất nước. - Cái điều em nói bữa trước là phải tự cường, rất phù hợp với suy nghĩ của anh đó. Nhưng làm được điều ấy, trước mắt chưa thể trông cậy vào những người nông dân khốn khó này. Trước mắt vẫn phải trông nhờ vào những người có tài sản, cống hiến cho cách mạng. Đó là những ông lý, ông chánh, ông chủ trang ấp ở nông thôn; những nhà buôn, những ông chủ thầu, những nhà hữu sản ở thành thị. Những ông đội, ông cai và binh sĩ người Việt. Những người có lương tâm với đồng bào, với đất nước. - Đúng thế! Không phân biệt, không phân biệt! Miễn là ai có tấm lòng yêu nước, dám hi sinh vì cách mạng. - Về Hà Nội đợt này, anh định làm những việc gì? - Về Hà Nội đợt này sẽ phải hoàn thành một số công việc tối quan trọng. Đó là phải lập xong Khách sạn Việt Nam để có nguồn tài chính nuôi lực lượng và mua sắm vũ khí tích trữ cần thiết. Tranh thủ sự đóng góp của các điền chủ, các thương gia, làm sao thu được thật nhiều tiền. Đã thuê cơ sở ở 38 Hàng Bông của Thuận Thành Ky, tự nguyện cho cách mạng sử dụng, do Hoàng Văn Đào đảm trách. Chuyện này ta phải bàn kỹ với Đoàn Trần Nghiệp cử người chăm lo việc kinh doanh sao cho kết quả, cũng là nơi đi về liên lạc của các thành viên bí mật. Phải củng cố các chi bộ, kết nạp thêm đảng viên, tăng lực lượng cho đảng. Mặt khác ta phải tổ chức ra tờ báo, để làm công tác tuyên truyền cho cách mạng. Mình định lấy tên tờ báo là "Hồn cách mạng". Việc này phải bàn bạc kỹ với Phạm Tuấn Tài, Phạm Tuấn Lâm, các anh ấy nhiều kinh nghiệm làm báo. Đây là tờ báo bí mật để chúng ta tuyên truyền vận động quần chúng nhân dân, vạch trần dã tâm của người Pháp thống trị. Làm cho người dân sáng tâm sáng trí, cùng nhau đánh đuổi thực dân, giành quyền dân tộc, dân sinh, quyền tự do cho mọi người. Chợt hai người nhìn thấy một điền nông gục xuống ruộng. Những nông phu cuống quít dìu anh lên bờ cỏ, lấy những nón mê quạt mát cho anh. Nắng và đói làm anh lả đi. Một người chạy lên bờ ruộng vặt rau má để anh nhai. Mãi mới thấy anh ta từ từ mở mắt. Đôi mắt hốc hác trắng dã. May quá, Nguyễn Thái Học có mang theo dầu cù là. Anh đưa cho Phó Đức Chính xoa nhẹ lên thái dương người bị cảm. Rồi bảo người nhà anh nông dân cầm lấy dùng khi cần. Những người nông dân bỏ cả cày bừa đưa người bệnh về làng. Những lúc như thế này, Nguyễn Thái Học lại thấy nhớ quê hương da diết. Giờ này ắt hẳn cha cũng đang ra đồng cày bừa như những người nông dân ở đồng đất đây. Chỉ có khác là nhà còn có con trâu để làm sức kéo, không phải lấy sức người thay trâu. Cũng giờ này, liệu mẹ đang gồng gánh đi chợ nào? Từ hôm chia tay với Cửu, chắc mẹ vất vả thêm nhiều. Lần này định về quê, sẽ tích cực vận động thêm người tham gia vào tổ chức. Nhưng phải làm xong một số việc ở Hà Nội đã. Nguyễn Thái Học nói với Phó Đức Chính, khi nào công việc ở Hà Nội tạm ổn, sẽ mời Chính về Vĩnh Yên, vừa thăm quê Học, vừa gây dựng thêm cơ sở chi bộ đảng ở vùng đất này. Mải nghĩ, Nguyễn Thái Học sực nhớ còn rất nhiều việc phải làm, cần đi thật nhanh để khỏi lỡ chuyến ô tô khách cuối ngày từ Hưng Yên về Hà Nội. Anh cùng Phó Đức Chính đi như chạy. Chương VIII HÀ THÀNH NHIỀU NGÕ NGÁCH nơi không thể cũng là nơi có thể vầng trăng kia cũng lúc thực lúc hư soi bóng nước nhân thêm niềm cô lẻ trả mùa trăng về bến đậu vô tư Hà Nội lên đèn, phố xá lắng hẳn mọi ồn ào. Khắp thành phố loang lổ ánh đèn điện hắt ra từ những ngôi nhà lầu. Hồ Hoàn Kiếm xao động, những làn gió gợn sóng lăn tăn làm cho bóng đền Ngọc Sơn và Tháp Rùa lấp lóa trong ánh sáng mơ màng. Thỉnh thoảng lại có đôi trai gái nép vào nhau dạo bước trên những vỉa lát gạch ven hồ. Không gian sẽ thật sự yên tĩnh nếu như không có tiếng tàu điện leng keng đưa những người khách cuối cùng trong ngày. Người Hà Nội chìm dần vào trong giấc ngủ tưởng như chưa hề trải qua một ngày bận rộn lo toan. Mấy người khách vội vã bước qua các phố chính rồi tản vào trong các ngõ ngách. Họ mang theo những gói, những cuộn được bọc giấy cẩn thận. Cử chỉ nhanh nhẹn, giống những người đi buôn bán làm lụng về khuya. Hà Nội như mụ mị trong màn sương đêm. Lúc ấy trên nóc lầu các công sở hoặc các lùm cây hình như có bóng người. Họ làm việc gì đó mà không hề phát ra tiếng động. Phía dưới đất lảng vảng người canh chừng. Rất nhanh, từng nhóm vài ba người, họ chuyển từ phố này sang phố khác. Không để lại dấu vết gì. Sự vụ diễn ra nhanh chóng, khiến những ai vô tình nhìn thấy đều dễ dàng cho qua, không cần để ý. Chỉ đến sáng hôm sau, nhìn lên nóc nhà các công sở, trên các lùm cây cao họ mới túm đông túm đỏ, xôn xao chỉ trỏ. Như thể phép lạ, chỉ qua một đêm mà rất nhiều nơi xuất hiện lá cờ nửa đỏ nửa vàng cùng với khẩu hiệu: “Đuổi người Pháp về nước Pháp, đem nước Nam trả lại người Nam”. Hẳn là người của “hội kín” hoạt động. Họ ghê gớm thật. Dám mạo hiểm treo cờ, treo khẩu hiệu ngay trên nóc nhà hát lớn, nóc nhà thờ, nóc chợ và cả khu vực dinh thự của các quan tây. Phố nào, ngõ ngách nào người ta cũng bàn tán về việc cờ và khẩu hiệu của “hội kín” treo khắp nơi. Trên các tuyến tàu điện cũng xôn xao về chuyện truyền đơn được ai đó gài vào gầm các toa tàu. Khi tàu chạy qua các phố, những tờ truyền đơn cứ tự động bay ra. Người đi chợ sớm và dân Hà Nội vừa mở cửa nhà đã thấy truyền đơn cuốn theo gió bay tứ tung. Cái sự lạ lùng ấy không thể không gợi tò mò với mọi người. Họ nhặt truyền đơn lên đọc. Nội dung kêu gọi mọi người đồng sức đồng lòng chống Tây: Nước nhà bao lầm than Vì người Tây cướp nước Hãy cùng nhau chung sức Đánh đuổi Tây về Tây… Lập tức cả Hà Nội như lên cơn sốt. Còi rúc, còi ủ, còi réo, còi huýt rinh ran. Cảnh sát, lính khố xanh, lính khố đỏ, lính lê dương cùng quan tây, quan Việt… chạy nháo nhào. Việc phải làm tắp lự là gỡ hết những băng cờ phản nghịch và thu hồi tối đa những tờ truyền đơn nguy hiểm gieo rắc trên đất Hà Nội. Cả Hà Thành như được chứng kiến một trận quyết đấu giữa đội quân uy hùng vũ trang đầy mình với đội quân vô hình chẳng biết xuất hiện lúc nào. Oái oăm, cờ và khẩu hiệu nhiều cái treo lửng lơ trên cao rất khó gỡ. Bọn thi hành công vụ phải trèo lên nóc nhà tầng hoặc những cành cây cao mới gỡ nổi. Nhiều đứa không dám trèo. Có tên trèo lên chới với trượt ngã. Dân xúm đông xem và cười nhạo. Nhiều người cố ý đọc to câu khẩu hiệu cho mọi người cùng nghe: Đuổi người Pháp về nước Pháp. Đem nước Nam trả lại người Nam. Bọn cảnh sát phải dùng dùi cui mới giải tán được đám đông. Bọn mật thám nhanh chóng cải trang trà trộn vào dân chúng để nghe ngóng, theo dõi và bắt bất cứ ai có hành vi khả nghi. Lệnh từ các nhà chức trách ban ra: - Cấm tụ tập đông người. Tụ tập 20 người phải xin phép. Ai làm trái sẽ phạt tù. - Cấm xem truyền đơn và cất giấu truyền đơn của bọn phản loạn. Ai làm trái sẽ phạt tù. - Cấm người ra đường phố trong giờ giới nghiêm, từ 21 giờ đến 6 giờ sáng. Ai không chấp hành bắt bỏ tù. Khắp thành phố nơm nớp không khí rình rập. Bọn lính kín được điều động từ các nơi về, la cà với những người ngồi quán nước vỉa hè, tia mắt theo dõi hết thảy những ai qua lại. Ai khả nghi, ai lỡ mồm nói những điều liên quan tới “hội kín” là khám xét, bắt bớ liền. Chập tối là mọi nhà đóng cửa im ỉm. Nhà ga nhan nhản mật thám. Ngõ chợ cũng lảng vảng mật thám. * Viên Toàn quyền Pierre Marie Antoine Pasquier nhậm chức vào ngày 22 tháng 8 năm 1928, thì ngày 7 tháng 1 năm 1929 bị ám sát hụt. Xứ Annam trong mắt hắn là một xứ nghịch phản. Xứ Annam không hề bình an như tên gọi. Người bản xứ không tuân thủ luật lệ do Toàn quyền đặt ra. Một quốc gia đói nghèo và bất phục tùng. Lũ nhà nho thì gàn dở cố chấp. Lũ Tây học thì trừ những tên vinh thân phì gia mưu lợi mưu danh vô tích sự, còn lại là lũ ương ngạnh, luôn kích động dân chúng phản kháng. Còn lũ dân đen thì ngu dốt, rách rưới, bần cùng, dễ dàng bị lôi cuốn vào với lũ nghịch đảng. Pasquier là viên Toàn quyền thứ 27, kể từ viên Toàn quyền Emest Constans nhậm chức đầu tiên ngày 16 tháng 11 năm 1887. Từ đấy đã có những viên Toàn quyền nổi đình nổi đám xứ Đông Dương, như Paul Doumer nhậm chức 1887, Paul Beau nhậm chức 1902, Antony Klobukowski nhậm chức 1908, Albert Sarraut nhậm chức 1911… Mỗi viên Toàn quyền đều để lại dấu ấn riêng về cách thức cai trị, dấu ấn riêng về những chiến tích trong việc thực thi triệt để chính sách thực dân. Đối sách của người Pháp đã tạm qua thời kỳ dùng quân đội trực tiếp dẹp các cuộc khởi nghĩa của đám lãnh tụ nông dân và đám Cần Vương bảo hoàng. Lũ nổi dậy điên rồ ấy đã được dẹp bằng súng liên thanh và đại bác. Thời ấy đã qua. Bây giờ là thời kỳ dẹp loạn, dẹp các hội kín, nên đội quân mật thám và cảnh sát được chú trọng tăng cường. Lính khố đỏ là người bản xứ được tổ chức chính qui có nhiệm vụ chủ yếu là đánh dẹp các cuộc nổi dậy. Lính khố xanh có nhiệm vụ bảo vệ an ninh và tuần tra canh gác, đều được đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của người Pháp. Lính khố vàng bảo vệ kinh đô Huế. Người Pháp cần phải biết tận dụng người bản xứ làm tai mắt và làm tay sai cho mình. Đấy là phương sách tốt nhất để cai trị đám dân dị biệt ngôn ngữ và hạ đẳng này. Kế nhiệm Alexander Varenne, Pasquier đến tiếp quản Phủ Toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội. Đây là công trình kiến trúc do kiến trúc sư Charles Lichtenfelder thiết kế, theo phong cách cổ điển châu Âu, toát lên vẻ vừa hoành tráng vừa uy nghiêm vừa phô trương quyền lực. Phòng khánh tiết mang phong cách Louis XIV sang trọng, được xây dựng trong những năm 1901-1906. Cả công trình bề thế được toạ lạc ở trên khu đất rộng vốn xưa là đất của các làng Xuân Sơn, Khánh Sơn, Ngọc Hà. Công trình được vươn rộng ra, lấy cảnh quan thiên nhiên vườn Bách Thảo làm nền tôn cho kiến trúc thêm ngoạn mục. Sau khi nhậm chức, Toàn quyền Pasquier lập tức cho triệu viên Thống sứ Bắc Kỳ Jean Louis René Robin tới để bàn bạc về việc tăng cường an ninh toàn xứ, mà trọng tâm là Hà Nội. Pasquier nói: - Tôi vâng lệnh nước Cộng hoà Pháp đến đây để cùng các chiến hữu hoàn thành sứ mệnh khai hóa xứ sở này. Tuy nhiên, tôi là người mới tới, dù rằng trước khi nhậm chức đã cố gắng khảo cứu các tài liệu, nhưng chưa thể hiểu biết xứ sở này bằng ông. Vậy ông hãy hiến kế cùng cộng sự để hoàn thành đại sự nước Pháp giao phó. Robin được cấp trên đề cao, thấy hởi lòng hởi dạ, liền thưa rằng: - Xứ sở này quá nhiều những tên cứng đầu cứng cổ. Sau các cuộc khởi nghĩa của đám Cần Vương và nông dân bất trị bị tiêu diệt thì các dư đảng của chúng vẫn như loài cỏ, lại tìm cách ngóc đầu dậy. Cho nên việc tăng cường kiểm soát và trừng trị những kẻ phản loạn vẫn phải đặt lên hàng số một. Phải tập trung xây dựng đội quân ngầm trà trộn vào dân chúng để phát hiện những tên cầm đầu. Phải bóp nghẹt chúng từ trong trứng. Bắt nhầm hơn bỏ sót. Cứ bắt bớ, tra tấn, tù đày chúng sẽ phải nhụt chí. Ở đây là đối trọng giữa sắt thép và máu. Máu thịt nào chịu nổi sắt thép? Robin rất thú vị khi đưa ra được hình ảnh so sánh. Còn Pasquier thì trầm ngâm. Không thể hiểu được thời anh chàng Toàn quyền tiền nhiệm Varenne đã nương nhẹ làm sao mà để Nam Đồng thư xã của bọn vô chính phủ hoạt động tuyên truyền, âm mưu nhồi nhét tư tưởng chống đối nhà nước, phải mất quá nhiều thời gian mới được dẹp bỏ. Hậu quả của việc nương nhẹ ấy đã nhỡn tiền là chuyện treo cờ và rải truyền đơn chống chính quyền bảo hộ của bọn nghịch đẳng đã diễn ra. Pasquier yêu cầu Robin nói rõ thêm tình hình Bắc Kỳ để còn có đối sách với những kẻ liều lĩnh, dám ngang nhiên gây chuyện bất yên giữa đất Hà Thành. - Người xứ này hoàn toàn không đơn giản. Họ có truyền thống hàng nghìn năm chống phong kiến phương Bắc. Trong lịch sử, họ có nhiều danh tướng, đã từng chiến thắng những đội quân lành nghề, kể cả quân Nguyên Mông từng chinh phạt khắp Á sang Âu, bằng các cách đánh linh hoạt mà họ đã đúc kết là lấy yếu thắng mạnh… Chắc ông nghiên cứu lịch sử nước này đã rõ, thời Trần họ có Trần Hưng Đạo và ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông; thời Lê họ có Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã chiến thắng quân Minh hùng cường; thời Nguyễn Huệ họ chiến thắng quân Thanh với hình ảnh Gò Đống Đa lấp đầy xương khô của kẻ bại trận. Có trận đánh chẳng kém gì Waterloo. - Đấy là lịch sử đã qua. Còn bây giờ thì đã khác. Đối với người Pháp, sẽ chứng minh bằng sức mạnh của phi cơ và đại bác. Vậy cái nguyên nhân của phiến loạn là gì? Là gì? Robin cười mỉm, cố tìm một câu trong "Truyện Kiều" ứng vào hoàn cảnh câu chuyện: - Rằng hay thì thật là hay Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào… Pasquier hỏi lại: - Ngài nói vậy nghĩa là sao? Robin bảo: - Đấy là một câu trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du nổi tiếng ở xứ sở này. Nhân chuyện nói phi cơ đại bác, tôi lại nghĩ, sức mạnh của chúng ta chẳng khác gì mãnh hổ vồ đàn ong. Chưa vồ được con nào thì đã bị ong đốt sưng mặt. - Thật là thú vị! Đúng là ngài ở xứ sở này lâu đến thuộc cả "Truyện Kiều"! Mà "Truyện Kiều" thì trước khi sang đây, tôi đã tìm hiểu, dân xứ này coi là sách gối đầu giường, phải không? - Vâng, nhiều câu trong "Truyện Kiều" như phương châm ứng xử, như vận vào thế sự. Dân Annam coi "Truyện Kiều" là tác phẩm của thế gian, áng văn thần, thi sấm của dân tộc. Cho nên, họ sinh ra chuyện bói Kiều. Như dự báo điềm lành điềm dữ. Chẳng hạn câu: Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. Hoặc là câu: Nhân duyên đâu lại còn mong. Hay là câu: Có khi biến có khi thường. Ngồi chờ nước đến xem dường còn quê. Mỗi câu ứng vào mỗi hoàn cảnh, thật là linh nghiệm. - Nhưng tôi muốn hỏi cụ thể hơn điều mà ngài quan tâm hiện nay? Robin từ tốn trả lời theo yêu cầu của viên Toàn quyền: - Mầm mống của sự phiến loạn là do các hội kín ngấm ngầm hoạt động, ảnh hưởng của các tư tưởng dân chủ tự do từ bên ngoài du nhập, cộng với tính cách của dân bản địa, họ không chịu yên thân, luôn tìm cách chống phá nhà nước Đại Pháp. Ngay cả cái viện Dân biểu Bắc Kỳ do Toàn quyền Varenne ký Nghị định lập nên ngày 10 tháng 4 năm 1926, cũng có nhiều yêu sách không hợp với chính sách cai trị của Pháp quốc. - Vậy phải vô hiệu hóa mọi hoạt động của chúng. Để đối phó với các hội kín, rất cần tăng cường cơ quan mật thám. Giao cho cơ quan này những quyền hạn tối đa. Củng cố cơ quan này từ đầu não tới cơ sở. Vừa đảm nhiệm vai trò tình báo vừa có vai trò giữ gìn an ninh. Vừa có chức năng điều tra vừa có chức năng trấn áp. Còn cái viện Dân biểu dân beo kia, nó có quyền gì mà đòi bàn chuyện chính trị? Để yên lúc nào thì được lúc ấy, chứ khi cần thì dẹp bỏ, khó gì? - Tôi nghĩ, cái viện Dân biểu kia cũng chẳng cần để ý, vì dẹp lúc nào nên lúc ấy. Cứ để như bù nhìn có sao? Vấn đề chính là, phải lựa chọn những người mẫn cán, lành nghề, được đào tạo chỉn chu, thông thuộc xứ này, cùng với việc sử dụng những tên phản bội, cài cắm vào hàng ngũ của chúng, làm tai mắt từ bên trong. - Vậy thì ai sẽ đảm nhiệm tốt việc này? - Tôi sẽ trình bày với Louis Marty, Chánh mật thám Đông Dương, để tìm người vào chức vụ Chánh mật thám ở Bắc Kỳ. Còn các tỉnh đều phải có các Sở mật thám để giúp ta kiểm soát tình hình. Chánh mật thám Bắc Kỳ không ai hơn Arnoux. - Trước khi sang xứ Annam này, tôi đã trả lời phỏng vấn của phóng viên tờ "Thần báo" ở Paris rằng: sẽ noi theo các quan tiền lỵ, liên kết những tên trung thành ở bản xứ với Lang Sa, không dung thứ cho sự phiến động hoặc sự gì động chạm đến trật tự và trị an theo chính sách của nước Pháp, là những điều cần cho cuộc tấn bộ của thuộc địa. Whisky được mở mừng ý tưởng gặp nhau giữa hai kẻ đang lãnh phận sự cao cả của những tên viễn chinh mẫn cán! * Trong khi Pasquier và Robin bàn bạc phương thức tiêu diệt các “hội kín” đang ngấm ngầm chống lại chế độ thực dân, thì tại khách sạn Việt Nam, 38 Hàng Bông do Hoàng Văn Đào và Đoàn Trần Nghiệp đảm trách, cũng đang có cuộc gặp mặt các yếu nhân của Việt Nam Quốc Dân đảng. Nơi này từ khi thành lập đã thực hiện vai trò vừa kinh doanh vừa là nơi liên lạc của tổ chức. Lễ tân vừa là nhân viên phục vụ vừa là bảo vệ được bố trí gác ngay ở cửa khách sạn và ngoài phòng họp. Bữa nay, nếu người lạ tới thì báo hết chỗ nghỉ và không còn thức ăn phục vụ. Tình huống xấu xảy ra thì có mật hiệu để mọi người kịp xử lý. Nguyễn Thái Học kiểm điểm lại kết quả của công tác phát triển tổ chức. Cả nước sau mùa thu năm 1928 đã có 120 chi bộ và đã kết nạp được hơn 1500 đảng viên, trong đó có 120 đảng viên trong giới quân sự là binh lính Việt tại ngũ trong quân đội Pháp. Đoàn Trần Nghiệp cho rằng đã có những hoạt động gây được thanh thế của Việt Nam Quốc Dân đảng. Chẳng hạn như việc rất nhiều người trong mọi tầng lớp xã hội xin gia nhập đảng. Trong đó có nhiều người là chánh tổng, lý trưởng hương hào ở nông thôn, các thương gia, giới trí thức và doanh nhân ở thành phố. Có nhiều người có hoàn cảnh đặc biệt. Trong số những người ấy, phải kể đến Nguyễn Văn Viên, học trò cũ của Nguyễn Khắc Nhu. Cha mẹ Viên đi phu đều đã chết thảm thương trong đồn điền cao su Nam Bộ. Nay chỉ một thân một mình, ngày ngày đi làm thuê cho hãng Poinsard & Veyret. Là con người hăng hái nhiệt tình, không nề hà các nhiệm vụ được giao. Viên được Nguyễn Khắc Nhu giới thiệu đã tuyên thệ trước lá cờ đảng, không sợ hy sinh, làm việc gì dù nhỏ nhất cũng cố gắng, để làm một con dân có ích cho đất nước. Sau khi tuyên thệ, Viên đề nghị xin lãnh trách nhiệm ám sát tên Bazin, khét tiếng gian ác, trùm mộ phu đưa đi các đồn điền cao su ở Nam Bộ và Cao Miên, Lào, Xiêm La, Tân Đảo, làm cho bao người cơ cực, bao gia đình tan nát, thân xác bón cho gốc cao su. Nguyễn Thái Học để mọi người phát biểu hết chính kiến và những điều suy nghĩ nung nấu trong họ. Hoàng Văn Đào, giọng nói vang ấm, trình bày về những điều anh hằng quan tâm: - Nhìn vào lực lượng chúng ta ngày một thêm đông, điều đó chứng tỏ sự tự nguyện rất đáng quí. Nhưng để hoạt động được tốt thật không dễ dàng. Ngay như khách sạn ta đây, lúc đầu khai trương thì rất đông khách, số tiền thu được đóng góp cho việc mua súng đạn cũng khá. Nhưng có chuyện phao tin khách sạn ta chứa chấp “hội kín” và bọn du thủ du thực, nên khách khứa ngày một thưa vắng, họ không dám đến ăn nghỉ vì sợ bọn cò mật thám. Nguồn thu ngày càng suy giảm. Nếu không lo tới củng cố và cách thức hoạt động mới thì rất có nguy cơ đóng cửa. - Tôi cho rằng ta chưa… chưa… chưa biết cách làm. Phạm Thành Dương thuở nhỏ học trường Bưởi, đi lính làm y tá ở Đồn Thông, rồi làm việc tại trường bay Bạch Mai, được Nguyễn Thái Học giác ngộ, cử làm Trưởng ban binh vận, ngồi ở vị trí trung tâm, không thể không gây chú ý cho mọi người, vuốt mái tóc chải mượt, thong thả đứng dậy, tư thế thật trang nghiêm, giọng nói thật sôi nổi, vội vàng nói tiếp: - Tôi cho rằng không có việc gì khó mà tổ chức chúng ta lại chịu bó tay. Phải lạc quan lên. Tôi nghĩ rằng các ý… ý kiến của mọi người là mới nói tới cái phần thủ thế, còn phần tiến công là ta phải gắng… gắng công hơn nữa. Đã gắng công làm việc gì ta cũng… cũng làm bay tuốt. Tỷ dụ như việc treo băng cờ, thả truyền đơn ngay trước mũi của lũ mật thám, bọn chúng có làm… làm gì được ta đâu? Còn phần tôi, được tổ chức phân… phân công đã gắng công sản xuất được khá nhiều bom ở khu vực… vực Bạch Mai. Có kho tàng cất giữ hẳn hoi đàng… đàng hoàng, chỉ cần có động sự là thừa… thừa sức cung ứng số bom đánh vào các đồn bốt của quân… quân Pháp ở Hà Nội. Tôi cho rằng Khách sạn Việt Nam chưa phát huy được công… công dụng còn do bởi những ai phụ trách ở đây còn chưa… chưa đủ kinh nghiệm kinh doanh và chưa… chưa gây được thanh thế chỗ đứng trong… trong trường ganh đua. Hoàng Phạm Trân thì nhấn mạnh thành công của công tác tuyên truyền. Anh cho rằng việc treo cờ và khẩu hiệu vừa rồi cần được phát huy. Đấu tranh bằng phương thức hòa bình là đấu tranh êm ả nhất, vẫn có thể làm lung lay hệ thống tư tưởng của chính quyền cai trị: - Theo tôi nghĩ, mình hành động như vừa qua là quá mạo hiểm rồi. Không nên nghiêng về bạo động, mà phải đấu tranh bằng các giải pháp mềm dẻo, từng bước, như mưa dầm thấm lâu để đạt mục đích cuối cùng là thắng lợi mà không phải tổn hao sức người. Phó Đức Chính cắt lời Hoàng Phạm Trân: - Anh sợ chết à? Đấu tranh bằng con đường hòa bình không thể hơn được cụ Phan Chu Trinh, kết quả ra sao mọi người đã thấy. Theo tôi, việc đấu tranh kết hợp giữa tuyên truyền và vũ trang là phương cách tốt nhất. Phải chuẩn bị vũ trang khi có thời cơ. Lấy vũ trang giải quyết mọi vấn đề mà cách thức đấu tranh hòa bình không đạt được. Phạm Thành Dương thì hăng hái ra mặt: - Theo cá… cá nhân tôi thì như tôi đã nói, phải có trí trên trường ganh… ganh đua! Phải tỏ rõ Việt Nam Quốc Dân đảng của chúng ta thừa…thừa sự hăng hái. Việc khó khăn cứ giao cho… cho… cho tôi đảm… đảm nhiệm, tôi có thể vừa tham… tham mưu vừa trực tiếp chỉ… chỉ huy đấu tranh, chắc hẳn còn hơn nhiều… nhiều các anh ngồi… ngồi đây. Mọi việc đối với Thành Dương này dễ như trở… trở bàn tay. Phó Đức Chính phát biểu: - Ta không bàn tới chuyện hơn thua ở đây. Tôi cho rằng ai thích hợp với công việc nào thì đảm nhiệm công việc đó. Còn việc tuyên truyền quần chúng nhân dân giác ngộ cùng tham gia chống thực dân là vô cùng cần thiết, nhưng không phải là phương pháp duy nhất. Cùng một lúc ta phải tích cực chuẩn bị cơ sở cho vũ trang. Muốn vậy ta phải chuẩn bị lực lượng có thể trực tiếp chiến đấu và vũ khí trang bị cho khởi sự tiến hành. Phạm Thành Dương thầm hiểu Phó Đức Chính có ý phản ứng về câu tự đánh giá quá cao của mình. Dương biết rằng mọi người chưa hẳn đã đặt vị trí của Dương đúng với khả năng Dương có. Vốn trưởng thành trong một gia đình có học, Dương muốn khẳng định vai trò của mình bằng danh tiếng. Cha của Dương là ông Giáo Du, người vẫn được tiếng khôn ngoan, ưu thời mẫn thế, am tường thời cuộc, ứng phó khéo léo với mọi thời. Ông ấy thường dạy con “đời người là danh lợi, không đắc lợi phải đắc danh, không đắc danh phải đắc lợi”. Phạm Thành Dương vẫn cho rằng câu nói đó có chút ích kỷ nhưng mà đúng. Muốn có danh lợi phải lựa thời. Phải làm sao cho thiên hạ biết đến mình. Không gì hơn là tự quảng bá. Ngồi trong góc nhà, không lên tiếng thì ai biết? Dù sao thì Phạm Thành Dương cũng đã làm cho mọi người biết đến mình. Mai sau thành sự, hẳn mình sẽ có vị trí xứng đáng. Cân nhắc từng lời, Dương nói: - Vấn đề tôi nói đến không phải là chuyện hơn thua, có thể tôi diễn đạt chưa… chưa đúng ý. Tôi muốn nhấn… nhấn mạnh trách nhiệm. Khả năng tôi có thể gánh vác công việc nặng… nặng nề hơn. Tổ chức phải tin ở tôi. Đoàn Trần Nghiệp cắt ngang lời Dương: - Tất nhiên, ở trong cùng một tổ chức thì phải tin nhau. Vấn đề đáng quan tâm là hoạt động sao cho hiệu quả, đạt được mục đích đấu tranh từng giai đoạn. Tôi tán thành ý kiến của anh Phó Đức Chính, phải kết hợp chặt chẽ giữa phương thức đấu tranh tuyên truyền và chuẩn bị vũ trang, tiến tới những trận đánh gây thanh thế cho cách mạng, làm cho kẻ thù không kịp trở tay. Đấy mới là toàn tâm toàn ý cho thắng lợi của cách mạng. Hoàng Phạm Trân bảo vệ chủ kiến: - Vâng, tôi vẫn cho rằng đấu tranh hoà bình là thượng sách lúc này. Ta không thể dùng tay trắng để bẻ gãy sắt thép. Ta dấn thân không có nghĩa là liều mạng. Ta cần đấu tranh hợp thức. Phó Đức Chính cũng đeo đẳng ý tưởng của mình, cho rằng Hoàng Phạm Trân đang chọn con đường nhung lụa để đi đến thắng lợi: - Con đường anh Trân chọn chỉ là ảo tưởng. Không bao giờ kẻ thống trị lại dễ dàng nhượng bộ khi chưa ngấm những đòn tấn công đích đáng. Chỉ có điều khi nào thực hiện còn tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện cụ thể với sự nỗ lực hết sức của chúng ta. Phạm Thành Dương vẫn một giọng tự đắc: - Tôi cho rằng mọi vấn… vấn đề đều trông… trông chờ ở sự sáng suốt. Tôi được giao Trưởng ban binh vận. Tôi đã từng nắm trong tay lực… lực lượng cất giấu bom mìn. Không có tôi hẳn vấn… vấn đề này khó khăn vô cùng. Nhưng khó… khó khăn có cách vượt qua khó khăn. Chỉ có điều bản… bản trách của tôi có hạn mà khả… khả năng của tôi thì còn nhiều. Tôi đề nghị không cần tranh… tranh luận về các vấn đề. Mà phải thấy hết khả… khả năng từng người. Riêng tôi, nếu được phân… phân công đúng khả năng, tôi sẽ có thể đứng vào… vào vị trí lãnh đạo. Nguyễn Thái Học lắng nghe ý kiến của mọi người, thấy rằng cần phải có chính kiến làm sao thống nhất được ý chí để mọi người cùng hành động: - Vâng, tôi đã nghe thấu ý kiến của từng người. Ai cũng nhiệt tâm vì công việc. Nhưng ý kiến mọi người chưa phải đã đồng nhất. Ai cũng có chính kiến. Đó là điều cần thiết, để ta có được chính kiến chung. Mang trách nhiệm của toàn đảng tôi xin nêu ý kiến như sau: Một: Kiểm điểm công tác vừa qua chúng ta đã làm được một số việc thật đáng kể. Đó là việc phát triển tổ chức. Lôi cuốn được nhiều người ở nhiều thành phần xã hội tự nguyện gia nhập đảng và trực tiếp tham gia các hoạt động ủng hộ đảng. Đây là việc làm tối cần thiết có tính sống còn để đảng ngày càng được vững mạnh. Việc này còn phải tiếp tục tích cực hơn nữa, nhưng cần lưu ý là phải kết nạp những ai thật tâm và nhiệt huyết. Hai: Các chi bộ Hà Nội đã có nhiều hoạt động tích cực. Việc gây quỹ đảng đã thu hút được từ hai nguồn, tiền ủng hộ của những người hữu sản yêu nước và thu từ hoạt động kinh doanh khách sạn. Đây chính là nguồn nuôi dưỡng đảng và các hoạt động của đảng. Tôi đề nghị việc này phải được làm ráo riết hơn nữa, tích cực hơn nữa mới có đủ nguồn tài chính để chi phí cho những công việc đòi hỏi không thể không có của hoạt động cách mạng. Đoàn Trần Nghiệp sẽ thay mặt đảng phụ trách thư ký thu chi ở đây. Ba: Một số việc đáng lưu ý trong hoạt động vừa qua cần phải được uốn nắn cho đúng với mục đích yêu cầu là: công tác tuyên truyền cần cẩn trọng hơn, tránh lộ liễu và tránh quá kích động làm cho những kẻ thống trị kiếm cớ đàn áp phong trào. Việc đảng viên Nguyễn Văn Viên đề xuất ám sát trùm mộ phu Bazin, rất đáng hoan nghênh tinh thần hăng hái dám hành động, nhưng chưa phải lúc, vì như vậy “lợi bất cập hại”, bọn thống trị sẽ thẳng tay đàn áp. Chúng sẽ khủng bố và bắt những người mà mật thám đã đưa vào “sổ đen”. Ta diệt được một tên Bazin, chúng sẽ nảy ra nhiều tên Bazin khác. Lúc này ta cần bảo toàn lực lượng, phát triển lực lượng, chứ chưa phải thời kỳ tổng công kích cách mạng. Bazin chỉ là cái cành, chặt gốc thì cành khắc héo. Điều cần chú ý là phải phối hợp với phong trào cách mạng cả nước, không phải chỉ cục bộ Hà Nội. Ở đây là trung tâm của cả nước, có thể nhanh nhậy về tin tức, nhưng thế lực của chính quyền thực dân, quân đội cảnh sát còn mạnh, ta phải chuyển phong trào về các địa phương, nơi bọn họ ít ngờ nhất, thì các hoạt động của ta mới thuận lợi được. Tổ chức của ta ở Đồng Bằng và Đông Bắc đã phát triển, chúng ta phải chuyển hướng sang vùng Trung Du và Tây Bắc từ Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên, Sơn Tây, Phú Thọ đến Yên Bái. Chú trọng tuyên truyền lôi kéo các binh sĩ người Việt, lấy vũ khí của Tây đánh Tây. Chúng ta phải đặc biệt giữ gìn bí mật và giữ gìn kỷ luật của đảng. Điều này mỗi lần tuyên thệ từng đảng viên đã thề, cũng là điều nhắc nhở mỗi đảng viên muốn xứng đáng mỗi ngày phải tự kết nạp mình một lần. Không gì bằng sự tự giác dấn thân cho cách mạng của mỗi người. Càng khó khăn càng đòi hỏi trí tuệ và sự khôn khéo của tổ chức chúng ta. Tôi tin tưởng ở mỗi thành viên sự trí tuệ và sự nhanh nhẹn trong hoạt động. Đặc biệt chúng ta hoạt động không hề nhằm tranh giành chức nọ quyền kia, mà là để gánh vác những nhọc nhằn, những hi sinh không sao lường hết được. Lúc này độc lập dân tộc là trên hết. Chúng ta cần chung sức giành lại đất nước, tôi kêu gọi mọi người gác lại mọi riêng tư để thực hiện lý tưởng cao cả mà mỗi chúng ta theo đuổi. * Phạm Thành Dương trở về nhà mà vẫn thấy có gì chưa thật thoả mãn. Hình như mọi người chưa thấy hết khả năng của Dương. Những điều Nguyễn Thái Học nói chỉ là chung chung, nặng về kêu gọi. Nói rằng tin ở mọi người, mà chưa dám giao trọng trách chỉ huy địa bàn Hà Nội cho Dương. Vai trò của Ký Con Đoàn Trần Nghiệp vẫn nổi trội hơn đối với các hoạt động ở Hà Nội. So với Nghiệp thì Dương nào có kém? Vậy mà Dương vẫn lép vế hơn? Tuy bực bội trong lòng, nhưng chả nhẽ lại nói toạc ra ngay trong cuộc họp. Rồi Phó Đức Chính nữa, hắn chỉ đáng tuổi đàn em, thế mà Nguyễn Thái Học có vẻ tin tưởng giao trọng trách quá lớn. Vai trò đảng trưởng của Nguyễn Thái Học thì không dám so bì. Nhưng cánh Nghiệp - Chính thì có gì đáng kể. Dương lẩm bẩm một mình, phen này ta sẽ đi theo cách của ta! Giáo Du thấy con trai về trong nét mặt hằn những vẻ tăm tối, liền hỏi: - Sao con về muộn vậy? Chắc có điều gì không hài lòng? Phạm Thành Dương trả lời ầm ừ trong họng: - Vâng, không có gì! Giáo Du vẫn hỏi dồn: - Rõ ràng là có chuyện. Tôi trông sắc mặt anh tôi biết. Chắc lại dây dưa vào cái hội kín hội hở nhà các anh chứ gì? Tôi đã cạch cái hội ấy rồi! Phạm Thành Dương chưa hết day dứt, nhưng nhớ tới lời tuyên thệ giữ bí mật của tổ chức, liền nói tránh sang chuyện khác. Nhưng Giáo Du vẫn riết róng: - Tôi truyền đời cho anh biết, đừng có vướng vào những chuyện tày đình, không đâu vào đâu. Thế lực người ta hùng mạnh, một nhúm người nổi loạn, không tấc sắt trong tay mà đòi đấu với tàu bay tàu bò, khác gì châu chấu đá xe? Mấy ngày nay đâu cũng thấy cờ quạt, truyền đơn, biểu ngữ phản đối nhà cầm quyền treo khắp nơi. Đi đâu cũng thấy rì rầm bàn tán về chuyện vuốt râu hùm. Người ta sẽ không để yên cho đâu. Anh có thấy trên phố nhan nhản cảnh binh không? Rồi còn mật thám ngầm trà trộn vào trong mọi xó xỉnh. Cứ sa đà vào những chuyện rắc rối trước sau cũng khốn nạn đấy. Phạm Thành Dương phản ứng yếu ớt: - Bố không phải lo. Con có trí khôn… khôn của con. - Khôn gì mà khôn? Trẻ người non dạ như anh, ngựa non háu đá. Tôi là tôi cấm đấy! Phạm Thành Dương không nói gì thêm, lặng lẽ vào phòng riêng. * Ngồi lại với Phó Đức Chính để bàn thêm một số công việc cần thiết nữa, Nguyễn Thái Học nói: - Chính này, mình chưa thật yên tâm về việc Nguyễn Văn Viên đề xuất ám sát Bazin đâu. Làm việc gì cũng phải tính toán kỹ, không thể sốc nổi được. Tuổi trẻ chúng mình nhiều khi hăng hái quá cũng dễ làm hỏng việc. Các cụ xưa hay nói thế nào nhỉ? Phải rồi, hăng máu vịt, hăng máu vịt là dễ chết lắm! Cho nên, Chính cũng phải để ý việc này. Cấm, cấm đấy! - Tôi cũng nghĩ phải làm thế nào đừng để xảy ra hậu quả lớn. Đang lúc chúng ta còn phải giữ kín lực lượng của thời kỳ bí mật. Tôi sẽ trao đổi kỹ việc này với Nguyễn Văn Viên. Còn một việc nữa, Nguyễn Thái Học cứ đắn đo, suy tính, chưa rõ thực hư, nhưng không thể không nói với Phó Đức Chính, đó là thái độ của Phạm Thành Dương trong cuộc họp vừa xảy ra. Rõ ràng, Phạm Thành Dương là do anh thu nạp khi cậu ta còn làm y tá ở Đồn Thông. Cậu ấy đã làm được một số việc đáng kể. Chẳng hạn, vận động được một số anh em ở Bạch Mai vào Quốc Dân đảng, tổ chức đúc được một số bom tay, cất giấu ở làng Bạch Mai và Thái Hà ấp. Dương đã có lần lên tận Yên Tử, tận sông Lai Hà gặp Nguyễn Thái Học để nhận nhiệm vụ bàn phương lược đánh chiếm trường bay Bạch Mai. Nhưng sao hôm nay, tự dưng cậu ta lại có những ý kiến bất bình thường. Có vẻ như nghi kỵ gì đó. Làm cách mạng mà đem lòng đố kỵ vào công việc thì thật nguy hiểm. Nguyễn Thái Học bỗng hỏi Phó Đức Chính: - Chính thấy những câu phát biểu của Dương thế nào? - Thấy bất bình thường. Hình như anh ấy có gì ẩn ức. Thực ra lúc đầu tôi không thật để ý cho lắm, nhưng khi anh ấy nói rằng “khả năng hơn nhiều người”, với lại “nếu phân công đúng khả năng… phải là lãnh đạo”, thì tôi thấy trong suy nghĩ của anh ấy có vấn đề, chứ không phải đơn thuần. - Tôi cũng thấy thế, nên đã phải có những câu nói nhằm uốn nắn những lệch lạc của cá nhân. - Dù sao cũng cần phải chỉnh đốn kịp thời! - Tôi sẽ bố trí gặp cậu ta để trao đổi cụ thể những điều cần quan tâm. Bỏ qua những gì bé mọn ảnh hưởng tới nhiệm vụ của cách mạng. Vấn đề cần thiết lúc này là thu phục nhân tâm, kéo mọi người vào công việc chung. - Tôi cho rằng phải tự thân từng người giác ngộ về vai trò của mình. Ai cũng nhiệt thành nhiệt tâm thì nhiệm vụ cách mạng mới trôi chảy được. - Đúng vậy! Còn bây giờ chúng ta bàn thêm với nhau về chuyến đi về cơ sở sắp tới ở vùng Vĩnh Tường, Vĩnh Yên. - Tôi với anh đi cùng chuyến này nhỉ? - Tất nhiên là đi cùng, nhưng Chính phải đóng vai phụ việc cho ông chủ, lên mạn ngược buôn trâu cùng với mình. - Ôi, thế thì còn gì bằng, em sẽ gắng học cách buôn trâu mười chuyến lỗ chín chuyến của ông anh! Nguyễn Thái Học cười phá lên. Rất thú vị với nhận xét về tài đi buôn của Nguyễn Thái Học. Có lần, đi buôn trâu tận rừng Yên Bái về bán cho lái trâu Sơn Tây, trừ đầu trừ đuôi, trừ ăn trừ uống, lỗ gần một nửa! Phó Đức Chính cảm thấy rất sảng khoái khi được Nguyễn Thái Học kéo đi cùng. Ngoài công việc vẫn là những chuyện tâm tình. Đôi khi được nghe những lời khuyên rất chí lý. Còn Nguyễn Thái Học cũng tiếp thu được ở người bạn trẻ những ý tưởng táo bạo. Những xử lý quyết đoán thông minh. Bỗng Nguyễn Thái Học sực nhớ chuyện chia tay của Chính với Thắm thì hỏi: - Thắm còn viết thư cho Chính không? - Vẫn viết anh Học ạ! Tội cho cô ấy quá! Nhưng em đã quyết rồi. Thật khó lòng làm khác được! - Rồi cũng phải xem. Nếu chúng ta giành được thắng lợi, lúc ấy Thắm vẫn đợi thì sao? - Thì còn gì bằng? Chúng ta đều là con người chứ có phải gỗ đá đâu. Chia tay với Thắm, em cũng đau lắm. Nhưng chắc rồi Thắm sẽ hiểu. Hai lái buôn trâu bất đắc dĩ cũng tay nải, cũng áo tơi, nón lá, chẳng khác gì lái buôn đường trường! Theo con đường vượt qua Sơn Tây, sang đất Vĩnh Yên, tạm xa đất Hà Nội, chưa biết bao giờ trở lại. Chương IX TÌNH SỬ VÀ CUỘC DẤN THÂN nhìn vào mắt nhau nhìn vào thử thách khát khao những giây phút bình yên có một ngày trái tim bỗng trĩu nặng thèm chở che cỏ dại cất lời thiêng Để nắm tình hình cụ thể các chi bộ hoạt động ở vùng trung du và miền núi, Nguyễn Thái Học đã thư bí mật cho những người có trách nhiệm thuộc khu vực họp mặt tại một ngôi chùa gần điếm canh đê bên bờ sông Hồng. Đây là một địa điểm vắng vẻ, có độ an toàn cao. Ngoài đê là rặng tre có thể ẩn náu khi cần. Người canh đê cũng là người canh gác luôn cho cuộc họp. Nguyễn Thị Giang cẩn trọng đọc lại bức thư triệu tập. Thư do Nguyễn Thái Học giao cho Nguyễn Thị Giang, liên lạc tin cẩn đưa tới các thành viên. Nội dung là các ký tín hiệu đã quy ước, chỉ người trong cùng tổ chức đọc mới hiểu. Thư viết bằng nước cơm trên giấy gió. Thấm nhẹ qua nước là chữ hiện lên. Đấy là cách làm sơ đẳng nhất, khi phải giữ gìn bí mật. Thư được cuộn nhỏ cho vào cọng bấc, ít ai để ý. Giang thận trọng nhớ kỹ nội dung, rồi xé vụn tờ giấy. Kể từ khi chia tay với Nguyễn Thái Học vào đầu năm 1928 ở Bắc Ninh, cách đến mấy tháng mới có điều kiện gặp lại nhau. Lần ấy, Nguyễn Khắc Nhu đã tạo cơ hội tuyệt vời cho Học và Giang gần gũi, cùng đi trên một chặng đường. Tuy nhiên, vì nhiệm vụ nên hai người chỉ bàn tới công việc. Trong thâm tâm Nguyễn Thị Giang rất vui bởi nhiệm vụ Nguyễn Thái Học giao đã được cô hoàn thành khá trôi chảy. Phải nói rằng dưới con mắt nhạy cảm của người khác giới, Giang thấy Học rất tế nhị và dễ cảm mến. Giang vẫn nhớ câu Nguyễn Thái Học nói lúc chia tay: “Em hát quan họ thật là có duyên, anh không thể nào quên được”. Câu nói ấy hàm nhiều ý tứ. Cũng là cái duyên như thể trời đất sắp đặt. Nếu không có việc nhập Việt Nam Dân Quốc vào với Việt Nam Quốc Dân đảng thì làm sao có được cuộc hội ngộ giữa Giang, cô gái tròn hai mươi, với Học, tuổi hai nhăm. Không hiểu cớ gì mà Giang cứ bồn chồn từ lúc nhận thư triệu tập. Chỉ lo vì lý do gì đó mà cuộc họp bị hoãn lại. Trong hoạt động cách mạng, ai lường hết được mọi tình huống. Từ khi được tổ chức phân công làm giao liên và binh vận, Nguyễn Thị Giang có dịp gần gũi Nguyễn Thái Học nhiều hơn. Tuy vậy, Giang vẫn mong ngóng những lần được gặp gỡ nhiều hơn nữa, để được nhìn, được nghe Học nói về công việc và những tình huống phải vượt qua đối với người cách mạng. Trong đêm trăng suông, cảnh vật như huyền ảo. Sương đẫm vai. Giang guồng nhanh bước chân. Đôi lần vấp phải vết chân trâu, suýt ngã nhào. Chỉ lo đến chậm trễ. Mọi người tề tựu trong ngôi chùa Dẫn Tự, cảnh vật tĩnh mịch, cách điếm canh đê một đoạn. Không ai gây tiếng động mạnh, như có thể nghe rõ tiếng muỗi vo ve. Thỉnh thoảng một cơn gió từ mặt sông thổi lên mang theo hơi lạnh se se, làm đung đưa cành lá đa cổ thụ. Giang thấy nao nao trong lòng khi nghe tiếng Nguyễn Thái Học nói: - Hôm nay chúng ta họp những người có trọng trách ở khu vực, để kiểm điểm những việc ta đã thu được và ấn định những việc làm sắp tới. Rất đáng hoan nghênh các đại biểu được triệu tập không thiếu người nào. Chúng ta có thể lần lượt nêu lên kết quả hoạt động của từng người, từng chi bộ đảng, từng địa bàn. Tôi đề nghị từng cơ sở báo cáo về những công việc đã làm được. Vâng, xin để đại biểu Vĩnh Yên nói trước. Đại biểu Vũ Văn Giản tức Hồng Khanh nói: - Vĩnh Yên, tiêu biểu là Vĩnh Tường, các chi bộ ngoài Thổ Tang, đã lan ra các xã Đại Đồng, Vĩnh Sơn, Tuân Chính, Thượng Trưng, Tân Cương, Vũ Di… Phong trào tiến triển có phần thận trọng, bởi vùng này nằm trong tầm ngắm của mật thám, vì là nơi có nhiều người nổi lên chống Pháp, như ông Lãnh Sâm, ông Đội Cấn trước đây. Đại biểu Nguyễn Nhật Thân ở Phú Thọ trình bày: - Là địa bàn nối tiếp đồng bằng với miền núi, Phú Thọ đã xây dựng cơ sở chi bộ ở các huyện Lâm Thao, Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê. Mạnh nhất là Lâm Thao, với các xã Xuân Lũng, Cao Mại, Kinh Kệ, Chu Hoá, Sơn Dương. Trong Lâm Thao, mạnh nhất là Xuân Lũng, chi bộ có tới 27 đảng viên. Rồi đến Võng La của huyện Thanh Thuỷ. Ở Xuân Lũng, ông Tổng sư Đặng Văn Hợp làm chi bộ trưởng, ông Bùi Tư Toàn làm Tư lệnh, cùng với các ông ký, ông đồ, tài xế xe lửa, đã lập nên bốn ban: tuyên truyền, tổ chức, trinh sát và tài chính để dễ bề hoạt động. Nhiều chị em bỏ tiền mua vải “con trâu xanh” may cờ và mua xi măng về đúc vỏ bom tay cho cách mạng. Chi bộ Cao Mại do Nguyễn Như Liên tức Ngọc Tỉnh đứng đầu đã tập hợp cả ba anh em ruột cùng anh em bạn bè vào đảng. Dừng lại một chút, Nguyễn Thái Học thưa với ông Thân: - Thưa bác Thân! Về tuổi tác bác là bậc trên. Vậy mà bác lặn lội đêm hôm đến họp, thật cảm kích quá. - Có gì đâu! Tôi đã làm viên chức công sứ Yên Bái, trớ trêu quá tôi bỏ, tìm đến Yên Thế thì nghĩa quân thoái trào, tới Nghệ An cũng không bám víu vào đâu. Về đến quê, nhiều người vận động tôi vào đảng, tôi vẫn thờ ơ. Chỉ đến khi gặp Nguyễn Thái Học ở Võng La thì tôi tin. Tôi tin! Đại biểu Hải Dương báo cáo: - Nhiều nhóm Việt Nam Quốc Dân đảng đã đi vào hoạt động mạnh ở các huyện Cẩm Giàng, Nam Sách, Thanh Hà, lan sang Vĩnh Bảo (Hải Phòng), đã thu hút nhiều thân hào, thân sĩ, và vệ binh các xã tham gia tổ chức. Tiêu biểu là chi bộ xã Lang Can, huyện Thanh Hà, là chỗ dựa tin cậy trở thành cơ sở của lãnh đạo đảng. Ở đây chi bộ đã lập trường quân chính, đang tích cực lập kho lương thực, rèn dáo mác, tự tạo bom tay, làm băng cờ biểu ngữ, sẵn sàng chờ lệnh nổi dậy. Các đại biểu tỉnh khác lần lượt báo cáo về tình hình hoạt động ở địa bàn hoạt động mình được đảm trách. Không khí cách mạng thật sôi sục. Nhiều người nóng lòng mong được thấy ngày đứng dậy đánh đuổi quân dị chủng ra khỏi đất nước. Nhiều người sẵn sàng hiến tiền bạc ủng hộ cách mạng. Nguyễn Thị Giang được sự uỷ nhiệm của chị Nguyễn Thị Bắc đã thuật lại việc vận động tuyên truyền giác ngộ binh sĩ đồn trú tại Yên Bái. Chị Bắc đã đóng giả là “em gái” của Cai Thuyết để đi lại dễ dàng trong trại con gái và khu trại lính. Thành công nhất là đã lập được chi bộ ngay trong hàng ngũ binh lính người Việt. Họ đã tổ chức sinh hoạt bí mật, cung cấp tin tức cần thiết cho chị Bắc. Những người có uy tín trong đội ngũ binh lính như Quản Cầm, Cai Hoằng, Cai Tiệp, Cai Lương đều là hạt nhân đáng tin cậy. Tiếng của Giang nhỏ nhẹ, nhưng rõ ràng, mạch lạc: - Kết quả của đội quân binh vận do các nữ đảng viên đảm nhiệm đã vượt xa mong muốn ban đầu. Đội quân ấy càng ngày càng đông thêm. Ngoài ba chị em ruột Nguyễn Thị Bắc, Nguyễn Thị Giang, Nguyễn Thị Tình làm nòng cốt. Giờ còn có Đỗ Thị Tâm, Nguyễn Thị Nhất, Lê Thị Thăng và bao cô gái khác đều hăng hái nhập đội quân binh vận. Ở Hà Nội có thêm các nữ sinh Nhất Chi Mai, Hương Bình, Thanh Tính, Kim Khuê, Cẩm Thuỷ, Nguyễn Thị Vân… rất nhiệt tâm tham gia may quần áo và giúp đỡ cách mạng. Phong trào phụ nữ lan rộng, chị Thành Béo bán phở ở Hàng Đậu thành cơ sở của ta. Cả chị Lê Thị Thăng vợ anh Nguyễn Ngọc Sơn ở Gia Lâm, chị Nguyễn Thị Thuyết nhà buôn lớn, cũng tham gia tổ chức. À thì ra hiệu phở Hàng Đậu mà anh và nhóm Nam Đồng Thư Xã từng đến ăn cũng thành một cơ sở của cách mạng. Nguyễn Thái Học càng thấy rõ vai trò của phụ nữ trong sự nghiệp chung và tự thấy sai lầm của mình trước đây đã không kết nạp lực lượng phụ nữ vào tổ chức của mình. Anh thầm nghĩ nếu thiếu Giang lúc này thì thiệt thòi biết bao. Ai sẽ làm tốt hơn nhiệm vụ giao thông liên lạc trong hoàn cảnh khó khăn này? Ai sẽ làm tốt hơn công việc vận động chị em tham gia cách mạng? Khó có người vừa hiểu biết, vừa tháo vát, vừa thông minh trong xử lý các tình huống cam go trên những chặng đường phải trải qua. Vượt qua con mắt rình mò của mật thám nhan nhản khắp nơi, rất cần những người có khả năng ứng phó linh hoạt và khôn khéo như Giang. Nguyễn Thái Học nói thêm: - Rất đáng mừng là chúng ta đã kết nạp được nhiều người có khả năng vật chất giúp đỡ cách mạng. Ví dụ như: Tuần phủ Quách Vy ở Hòa Bình, Phó lý Dương Quang, Phó lý Quan Khê ở Bắc Ninh, Lý Thống ở Gia Bình, Bang Lịch ở Chí Linh - Hải Dương… Nhật Thân phụ họa: - Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của lãnh tụ Nguyễn Thái Học về phát triển lực lượng, chuẩn bị cho lâu dài. Nguyễn Thái Học nói ngay: - Ta nên gạt bỏ tư tưởng lãnh tụ, ngồi trên mọi người. Đừng gọi tôi là lãnh tụ. Như thế là phong kiến. Muốn làm việc cho dân cho nước phải bình đẳng. Muốn duy trì kỷ luật thì tự ta tạo lấy, tôi muốn chúng ta bình đẳng. Không được phép kéo dài cuộc họp, đề phòng mọi bất trắc, Nguyễn Thái Học yêu cầu mọi người ghi nhớ những nhiệm vụ cần làm, tiếp tục tuyên truyền vận động những người cùng chí hướng chống thực dân Pháp, cùng nhau góp của góp công, xây dựng lực lượng đứng lên giải phóng đất nước. Tiếp tục làm công việc binh vận, tranh thủ sự hiểu biết về quân sự của binh lính và vũ khí trang bị sẵn có, làm lực lượng nội ứng khi khởi sự. Điều này phải học và rút kinh nghiệm từ việc vận động binh sĩ ở Bắc Giang, ở Yên Bái. * Hai người, một trai một gái trên đường về Thổ Tang, đã dừng lại bên quán nước gốc đa Đồng Vệ tâm sự. Quán nước của bà già trong xóm, ban ngày bán quà bánh, củ khoai củ sắn, cho khách làm đồng nghỉ ngơi và khách vãng lai qua đường tránh mưa tránh nắng, ban tối dọn ấm chén về nhà, chỉ còn lại chiếc lán nhỏ với chiếc ghế bằng gióng tre. Suốt từ Lập Thạch nơi Giáo Giản dạy học đến Vĩnh Tường, nơi nào cũng có cơ sở của Việt Nam Quốc Dân đảng, nên việc đi lại của Nguyễn Thái Học ở đâu cũng có người che chở bảo vệ. Tuy nhiên, Học tự nhủ không được phép chủ quan, vẫn phải đề phòng những bất trắc. Đường về Thổ Tang chỉ còn một đoạn không xa. Cảnh vật ban đêm chỉ thấy mờ mờ phía chân trời. Ếch nhái kêu rinh ran khắp đồng. Con đường đất nối làng với quốc lộ đoạn từ Vĩnh Yên lên Việt Trì chỉ thấy nhờ nhờ một vệt trong màn tối. Nguyễn Thái Học kêu mỏi chân, nên dừng nghỉ một chút. Thực tình, Nguyễn Thái Học muốn dừng lại đây để được gần Giang lâu hơn. Trong thâm tâm Học, hình như đây là sự sắp đặt của tạo hoá. Anh thầm cảm ơn tạo hoá. Chưa có cô gái nào làm anh dễ xúc động bằng Giang. Cô không phải là người có vẻ đẹp toát ra bề ngoài. Vẻ đẹp ấy là gương mặt phúc hậu, là nét cười chân thực đằm thắm. Và, đặc biệt là giọng nói thanh và dịu, chứa đựng tư chất thông minh, hiền thục, quả quyết. Như tất cả phụ nữ cùng thời, Giang mặc chiếc áo nâu, đầu vấn khăn để tóc đuôi gà, trông thật nền nã. Cũng chưa bao giờ trước người khác, Học lại tỏ ra lúng túng ngọng ngượng như trước Giang. Học như thấy tim mình đập không bình thường. Dồn dập chả khác gì trống làng. Còn Giang thấy lòng càng cảm mến thủ lĩnh của đảng. Giang không thấy Học cao siêu, mà gần gũi, tin tưởng. Giang nể phục Học qua sự nể phục của mọi thành viên trong đảng đối với người đứng đầu đảng. Học xử lý mọi tình huống khá nhanh nhậy, bằng một lối suy nghĩ chắc chắn, nhiệt thành, thể hiện rõ phẩm chất của người đứng mũi chịu sào trong tổ chức. Đây là cơ hội tuyệt vời để Học nói lên tình cảm của mình trước người con gái mà anh thầm để ý. Học rất khó khăn để tìm một câu tỏ tình. Bây giờ nói ra cái điều ấy có tiện không nhỉ? Nói chuyện yêu đương lúc này liệu có gì chưa phải? Giang đánh giá thế nào nếu mình ngỏ lời yêu?… Hàng chục câu hỏi cứ đảo lộn trong đầu Học. Mãi rồi Học mới tìm được cớ để nói. Mở đầu lại là câu cực kỳ vu vơ vô nghĩa: - Gió quá nhỉ! Cô Giang có thấy lạnh không? Giang trả lời khe khẽ: - Vâng, gió quá! Hình như sắp mưa! - Mưa thì mát lắm nhỉ! - Mát lắm! - Mưa giữa cánh đồng không áo tơi thì ướt hết! - Vâng, ướt! - Giang có thể gắn bó với tôi… - Anh nói cái gì cơ? - Có nghĩa là… nghĩa là… - Sao anh khó nói vậy? - Tôi muốn em… không chỉ là đồng chí, mà là người gắn bó nhất, hơn cả tình bạn… - Em… vâng… tuỳ anh… Tự dưng Học nắm lấy tay Giang. Hai người đều run bắn như điện giật. Giang để yên bàn tay nhỏ nhắn của mình trong bàn tay to khoẻ của Học. Họ im lặng khá lâu, có thể nghe rõ tiếng tim đập thình thịch trong ngực mỗi ngưòi. Rồi Học kéo Giang lại sát mình, định đặt nụ hôn lên má, nhưng đôi môi lại tìm gặp môi Giang. Và, không phải giải thích, họ cứ muốn ôm nhau mãi. Giang khẽ đẩy Học ra và hỏi: - Bây giờ thì anh có còn định không kết nạp phụ nữ vào đảng không? - Thôi thôi mà, nhắc sai lầm cũ của anh làm gì? - Thế mà suýt nữa cánh phụ nữ chúng em phải đứng ngoài tổ chức đấy! - Cho anh sửa sai lần nữa này! Nói rồi, Học ôm lấy Giang và hôn nồng nàn. Giang chỉ kịp nói: “Khôn thế! Gian thế!” rồi lặng đi trong mê đắm nhiệt cuồng yêu đương. Chỉ hai người giữa chốn đồng không mông quạnh, để Học yên tâm về tình cảm Giang dành cho Học, Giang nói nhỏ bằng tiếng Pháp, nhưng Học nghe rõ từng chữ: - Je t’aime beaucoup et aussi notre but. (Em rất thương anh. Và yêu sự nghiệp của chúng mình). - Moi aussi. Ma bien aimée. Je te respecte toujours. (Anh cũng vậy. Anh tin em. Cô gái mà anh thực lòng quí trọng). Giang thấy trong lòng tràn đầy hạnh phúc. Cùng hoạt động cách mạng với nhau, vừa là đồng chí của nhau, vừa là người yêu nhau, thật là lý tưởng. Sẽ càng cảm thông với nhau trong mọi công việc. Không phải đắn đo dò xét. Những điều quan tâm của Học cũng là điều quan tâm của Giang. Càng yêu nhau càng gắng sức làm việc cho cách mạng. Giang mong ước mình sẽ giúp Nguyễn Thái Học trên mọi công việc có thể. Giang nguyện làm tham mưu, làm người bạn gắn bó suốt đời với Học. Nghĩ thế, Giang lại nói: - Nhưng anh Học này, người đi đạo họ lấy Chúa để thề bồi chung thuỷ với nhau, thế còn anh và em lấy gì để thề? - Lấy tính mạng ra để thề! Em tin như thế đi! - Nhưng phải có thủ tục chứ! - Mai, ta sẽ thắp hương ở Miếu Trúc và đền Thổ Tang để trình với linh thần, thổ địa, chấp nhận người con gái này là thành viên mới của làng. - Việc đấy rất nên làm, không thể sao nhãng được. Tình yêu của chúng mình phải được tổ tông chấp thuận, quỷ thần chứng giám. Mình không mê tín. Nhưng không được phép hành xử như một kẻ vô thần kém hiểu biết. - Về xin mẹ thẻ hương. Mượn làn khói linh để chứng giám lòng thành. - Sớm mai nhé! Rất sớm để em được chiêm bái những bậc nhân thần đã có công với làng với nước, để còn tiếp tục công việc cho được an lành. Dù sao, vẫn cần phải giữ bí mật, vì yêu cầu chung của tổ chức. - Được rồi! Được rồi! Anh và em sẽ thắp hương cầu mong các đấng linh thiêng phù hộ cho mọi việc hanh thông. Để hai đứa mình gắn bó trọn đời. Trầm ngâm một lát, Nguyễn Thái Học bỗng nói câu như gở miệng: - Bước đường cách mạng còn lắm chông gai. Chưa lường hết được thành bại. Chỉ có tấm lòng chúng mình trải với non sông. Nếu có chết, diễm phúc nhất là được về làng để chết! Tưởng Giang sẽ phản đối câu nói gở, thế mà Giang lại phụ họa: “Được chết ở làng thì quá sung sướng!”. * Mưa bắt đầu lắc rắc. Họ mới có lý do phải về nhà. Vừa đi vừa khoác vai nhau. Không thể đi nhanh hơn. Vài trăm mét lại dừng hôn nhau đắm đuối. Cơn mưa ập tới nặng hạt, hai người dắt tay nhau chạy về Thổ Tang. Họ chạy ríu vào nhau. Chân nọ vấp vào chân kia. Ngã dúi dụi. Họ cười trong mưa. Nguyễn Thái Học cảm thấy như được sống những giờ thần tiên nhất. Anh thầm cảm ơn Giang, cảm ơn cả cơn mưa nữa. Có cơn mưa làm cho mối tình hai người có vẻ lãng mạn hơn. Khó lòng quên được. Cả nhà thức giấc vì sự xuất hiện của Học và Giang. Bà Quỳnh lập cập dậy đốt đèn khi thấy tiếng Nguyễn Thái Học gọi khẽ. Giang ấp úng chào ông bà Hách. Thấy con trai và cô gái đi cùng đều ướt lướt thướt, bà giục đi thay quần áo tránh cảm lạnh. Bà lấy bộ váy áo tơ tằm cho cô gái mặc. Bà xuýt xoa: - Khổ vậy, đêm hôm mưa gió, vất vả thế này, nhỡ ốm đau thì khốn. - Không sao đâu mẹ ơi, vì công việc chúng con không thể ốm được, mẹ ạ! Nguyễn Thái Học trả lời thay Giang và giới thiệu với mẹ: - Đây là cô Giang, cùng tổ chức với con, thầy mẹ ạ. Vì nhiệm vụ bí mật, chúng con mới phải đi trong đêm tối. Con cũng thưa thêm với thầy mẹ là chúng con đã có hẹn ước chuyện riêng tư với nhau. - Thế quê cháu ở đâu? - Cháu quê ở Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang. - Cháu có mấy anh chị em? Cha mẹ cháu ra sao? - Vâng, cha mẹ cháu sinh được bảy anh chị em. Cháu là thứ hai. Cha cháu là Nguyễn Văn Cao, tham gia Đông Kinh Nghĩa Thục bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Còn mẹ cháu là Nguyễn Thị Lưu, hiện ở Phủ Lạng Thương. Chúng cháu phải đi đêm hôm vì công việc của hội kín. - Cũng phải lo đến cái sức khoẻ, không thể khinh suất được. Mẹ là mẹ lo lắm. Phải giữ gìn, chứ hội kín hội hở khéo mà luỵ đến thân, con ạ! Bà Quỳnh láng máng biết con đang làm những việc hệ trọng. Bà không can ngăn, nhưng bà cũng không muốn con lao vào chốn nguy hiểm. Ông Hách nói thêm vào: - Làm sao mà không lo. Cứ thấy đêm hôm chó sủa từ đầu ngõ đến cuối làng, là biết có kẻ rình rập. Không coi thường được đâu. Bây giờ đang là thời buổi nhiễu loạn. Tai vạ không thể lường được. Chí làm trai lên rừng xuống bể thời loạn thầy mẹ không ngăn cản. Nhưng lao vào chỗ hiểm nguy thì phải biết liệu, biết tránh khúc hiểm nghèo. Cũng như người dùng dao sắc, biết dùng thì đắc dụng, không biết dùng thì cũng dễ đứt tay. Vào hội kín chống Tây bây giờ là mong mỏi của mọi người dân khắp thôn trên làng dưới, nhưng đang lúc người ta mạnh, súng ống người ta nhiều, tay chân người ta lắm, thì phải cẩn trọng… Giang không thể ngờ cha mẹ của Nguyễn Thái Học thật là ân cần. Ở chốn thôn dã mà thấu hiểu thế sự và cảm thông với ý nguyện của con cái đến vậy. Nguyễn Văn Nho, em ruột của Nguyễn Thái Học, nghe cha nói chuyện với Học và Giang, thấy đây là thời cơ tốt nhất nói lên sở nguyện của mình, liền dậy góp lời: - Xin phép thầy mẹ, nhân có anh Học về, con muốn xin phép thầy mẹ cho con được đi cùng anh Học để làm phận sự của người nam nhi, như mọi thanh niên đối với đất nước. Ông Hách chưa nói gì thì bà Quỳnh đã ngăn: - Con ơi, một mình anh Học của các con đi làm việc tày đình, mẹ đã rối cả ruột. Bây giờ con lại đòi đi nữa thì mẹ biết sống làm sao? Nguyễn Thái Học nói với em: - Chuyện học hành của em tính sao? - Em đã mười bảy tuổi rồi. Việc học của em cũng nhiều trắc trở. Học nữa để làm việc cho tây, thì không bao giờ. Em muốn đem tuổi trẻ làm những việc có ích cho dân cho nước mình. - Việc này anh không quyết định được. Phải có thầy mẹ thuận lòng. Ông Hách thấy Nho đưa ra ý kiến đột ngột, khiến ông cũng ngỡ ngàng chưa biết cách trả lời sao cho thoả nguyện. Ông cứ nghĩ sao các con ông lại có cái chí, mưu lo việc của thiên hạ vậy? Ông thấy hành động của các con ông vừa hợp với chí khí của những người trai tráng trước an nguy của đất nước xưa nay nhưng lại vừa lo lắng vì đấy lại là những người con trai của ông, máu thịt của ông. Chúng mà mệnh hệ nào thì ông bà mất mát đau khổ trước tiên. Tuy nghĩ vậy, nhưng ông lại nói: - Các con lớn cả rồi. Chim biết bay thì chim phải rời tổ. Thầy mẹ làm sao mà giữ mãi được? Nhưng con người chỉ khác con chim ở chỗ dù bay xa tới đâu cũng vẫn biết bay trở về với tổ. Thầy mẹ chưa thể trả lời ngay cho Nho được, phải để cứng cáp lên hơn nữa. Nghe vậy, Nho càng khẩn khoản: - Thầy mẹ vẫn dạy chúng con, không được làm điều gì để thầy mẹ hổ thẹn. Con chọn chính con đường anh con đã đi. Con đường mà thầy mẹ đã không can ngăn anh Học, sao lại nỡ ngăn con? Thấy có nói nữa càng luẩn quẩn, ông Hách nói như ra lệnh: - Thôi cả nhà đi ngủ, không ai nói thêm gì nữa. Nói vậy, nhưng lại thấy ông Hách lên gian thờ tổ tiên, thắp hương, thỉnh chuông, đứng lẩm nhẩm khấn điều gì đó. Còn mọi người làm sao có thể đi ngủ ngay được. Giang xuất hiện trong nhà là một sự kiện đặc biệt. Từ nay, Giang có thể tự nhiên đi về như mọi thành viên gắn bó với gia đình. Bà Quỳnh nghĩ rằng, Học đã lựa chọn người gắn bó cả đời với nó chắc phải cân nhắc lắm. Bởi hai đứa cùng hoạt động với nhau, dễ cảm thông, cảm mến nhau. Vả lại, lời ăn tiếng nói đến dáng hình cũng dễ ưa. Thấy Giang trằn trọc chưa ngủ được, bà Quỳnh thì thầm: - Lạ nhà, chưa ngủ được hả con? Giang cũng thì thầm: - Vâng, con chưa ngủ ngay được. Sớm mai, mẹ cho con thẻ hương, thắp hương bàn thờ nhà mình xong, hai đứa chúng con sẽ ra thắp hương ngoài đền Thổ Tang và Miếu Trúc, anh Học hẹn con như thế. - Mẹ cũng nghĩ vậy. Việc đó phải làm, giữ đúng lễ giáo và lệ làng cho thuận trước, thuận sau. Giang nằm bên bà Quỳnh. Mắt nhìn vào khoảng không, có một vệt sáng bởi ánh sao lọt qua đầu hồi nhà. Bao nhiêu sự kiện không thể nào quên trong một ngày. Thật là diễm phúc được làm con một gia đình đầy nhiệt huyết đối với non sông đất nước. * Tơ mơ sáng, Học và Giang trở dậy đi ngay. Bà Quỳnh đã nắm cho hai người một mo cơm với muối vừng để tiện ăn trên đường. Học chỉ dặn mẹ, các con còn phải đi xa chưa biết khi nào mới về thăm nhà được. Nếu bạn bè thân thiết của Học có đến cần nhờ điều gì thì mẹ hãy giúp đỡ họ. Mẹ cũng cần đề phòng những kẻ gian đến thăm dò, hỏi gì về con thì mẹ trả lời không biết. Bà Quỳnh chỉ biết gạt nước mắt thương con trên bước đường lặn lội sương gió, chẳng hiểu may rủi ra làm sao. Tiễn các con đi rồi, bà Quỳnh lặng lẽ vào nằm cạnh ông Hách khẽ nói: "Các con đi rồi mình ạ!" Ông Hách trả lời: "Tôi biết rồi!" Thắp hương đền Thổ Tang xong, hai người vòng sang Miếu Trúc. Một ngôi miếu nằm ven cánh đồng, trên một khoảng đất rộng thoáng. Dễ hình dung nơi đây những cây trúc mọc um tùm ven khu gò đống xưa kia vắng vẻ. Nơi miếu thờ lặng lẽ yên tĩnh, nhưng chứa đựng vẻ thanh khiết, tiêu dao, rất hợp với những tâm tình kín đáo, dễ rung động. Bây giờ rừng trúc chỉ còn lưa thưa mấy bụi, những thân trúc gầy óng, lao xao trong gió. Có thể nhìn qua rừng trúc ra tận ngoài phía cánh đồng. Nguyễn Thái Học thấy Nguyễn Thị Giang lầm rầm khấn: - Con là Nguyễn Thị Giang, ở Phủ Lạng Thương xa xôi, nay hợp duyên hợp số cùng Nguyễn Thái Học, xin được về làm dâu con ở đất này. Mong thần linh thổ địa cùng các bậc thánh thần chứng giám. Con nguyện làm người trung nghĩa với liệt tổ liệt tông họ tộc và dân làng Thổ Tang. Con khấn cầu các chư vị thánh thần hãy phù trợ cho chúng con… Ngọn khói hương như quẩn quanh trên mái tóc để đuôi gà của Giang, rồi mới lặng lẽ tan vào không gian. Gió từ ngoài cánh đồng hun hút thổi qua rặng trúc, thổi động cành bàng, mấy lá vàng khẽ liệng xuống nền miếu. Lúc ấy, mới thấy ông thủ từ đến miếu. Ông cất tiếng hỏi: - Các cháu thắp hương sớm thế? - Chúng cháu thắp hương xong, phải đi ngay vì rất bận. - Bận thì cũng nán lại uống nước đã. - Chúng cháu xin cám ơn. Nguyễn Thái Học giới thiệu Giang với ông thủ từ, rằng Giang là vợ chưa cưới. Ông thủ từ vui vẻ hướng dẫn Giang xem lần lượt các cảnh vật và di tích khu miếu. Ông thủ từ nói: - Đã là con cháu dân làng Thổ Tang rồi thì phải có tâm nguyện, có lòng thành thì mọi việc sẽ được hanh thông. Khi nào về Thổ Tang thì cứ ra miếu thắp hương cầu khấn là rất linh ứng. Nguyễn Thái Học khi ấy mới kể với Giang rằng, ông từ cũng là đảng viên trung kiên của làng Thổ Tang đó. Nguyễn Thị Giang rất vui vì thấy ở đây ông thủ từ coi miếu cũng sẵn lòng đi cùng cách mạng. Giang nói: - Vậy là cháu rất yên tâm! Khi nào về đây có khó khăn gì, chúng cháu xin nhờ vả ở bác. - Việc dân việc nước sao cháu lại nói là nhờ vả? - Vâng! Thế thì cháu càng vững tin. Một buổi sáng thật trong lành, Nguyễn Thị Giang rất hào hứng nghe Nguyễn Thái Học kể truyền thuyết Miếu Trúc. Giang vô cùng thán phục trí tưởng tượng của người xưa. Cái đám mây màu đỏ trong truyền thuyết ấy thật lạ. Thật lãng mạn và cũng thật liêu trai. Chưa thấy ở đâu có chuyện kể tương tự. Cái đám mây đã cuốn lấy người phụ nữ giữa đồng, để bà ấy hoài thai sinh ra Lân Hổ, lớn lên dẹp giặc cứu nước. Miên man ý nghĩ về một câu chuyện dị thường huyền tích. Cánh đồng còn đó, nhưng người phụ nữ truyền thuyết của Miếu Trúc mang theo sự linh ứng về trời tự thuở nào. Học và Giang bước khỏi làng Thổ Tang khi mặt trời buổi sáng vừa hé rạng. Xin trân trọng giới thiệu |